Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2020

Đôi điều về cứu trợ Miền Trung

    Tôi đã nhiều lần tham gia hoặc dẫn dắt các đoàn thiện nguyện vào cứu trợ các tỉnh miền Trung, đặc biệt vào các năm 2005, 2011, 2013   Ý nghĩa thì rất tốt, không phải bàn đến. Nhưng tôi nhận thấy: Dù quà có đưa được tận tay đến bà con vùng thiên tai hoạn nạn, thì vẫn xảy có tình trạng chồng chéo và bập bõm. Nghĩa là chỗ nhiều, chỗ ít. Vùng sâu, vùng xa, cách trở giao thông, bà con cần quà thì không được mấy đoàn đến. Vùng gần đường đi lối lại , tình hình không đến nỗi quá khó khăn, thì lại được quá nhiều quà.

    Tôi đã từng ăn ngủ cắm rễ ở một xã trọng điểm lũ lụt, lốc xoáy miền Trung năm 2013, trong thời gian hơn một tuần liền. Mục đích để đón các Đoàn cứu trợ có mối liên hệ với Câu lạc bộ nhà báo nữ VN từ ngoài HN lần lượt vào tới. Và đó chính là dịp để tôi quan sát được tình hình khá kỹ lưỡng.

    Các Đoàn từ trong Nam và ngoài Bắc ùn ùn đến. Xe cộ tắc nghẽn hàng đoạn đường dài. Gạo mỳ, đường sữa, dầu ăn, nước mắm, chăn màn, quần áo, sách vở chất ngất, xếp đầy trụ sở ủy ban xã, hoặc các nhà văn hóa thôn làng. Ấy là do nhiều Đoàn không chở quà đến được, mà phải nhờ chính quyền địa phương mua hộ hàng quà, để sẵn đấy, đợi người vào sau phát quà. Cũng là rất tiện lợi. Nhưng giá gạo mì, hàng hóa mua tại vùng bị bão lũ đó, đương nhiên cao hơn nhiều so với giá thị trường. Thôi, đắt rẻ cũng không nói tới nữa. Mà cái đáng nói là những món quà ấy quá nhiều. Để dành không có chỗ, mà bán thì khó coi.

    Tôi đã dành cả một buổi sáng đứng trên tầng 2 trụ sở UBND xã trọng điểm đó quan sát cảnh tặng quà và nhận quà của 4 đoàn cứu trợ của cả HN và SG, khi mà các Đoàn của CLB nhà báo nữ vừa trở về hay chưa kịp tới.

Vốn không phải là người tinh mắt lắm, nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi để ý đến một chị nông dân mặc chiếc áo xanh hồ thủy khá nổi bật. Chị cứ đôn đáo chạy từ góc sân này qua góc sân khác để nhận quà, tay bưng, đầu đội rất vất vả. Xếp quà ra một góc vườn xa xa rồi lại tất tả chạy vào nhận tiếp. Và các cán bộ địa phương đọc danh sách ở bốn nhóm phát quà, đều xác nhận chị đúng là người nhận quà 100%. Lúc đó tôi mới bắt đầu nhìn rộng ra hơn thì thấy không chỉ chị áo xanh mà rất nhiều người áo nâu, áo tím, áo vàng... cũng hoạt động con thoi như chị.

    Hỏi ra thì mới biết, chị áo xanh là con dâu nhà nọ và lại là con gái nhà kia, thuộc danh sách của chính gia đình mình, và lại cũng thuộc danh sách của gia đình con trai con dâu chị, cũng thuộc danh sách nhà con gái con rể của chị. Và nhà nào cũng vậy thôi. Thế mới biết chính quyền và đoàn thể địa phương cũng biết vận dụng khá thông minh khéo léo trong khi làm danh sách. Chuyện gia đình bị nạn 10, khai thành 12, ví dụ thế, là thường thấy.

    Bởi vậy có tờ báo thống kê : Có những gia đình được nhận tới 96 thùng mỳ ăn liền và hàng trăm chai xì dầu nước mắm, chưa kể đến các món quà khác, là chuyện không hề nói sai.

    Nói vụng, có thành viên Đoàn thiện nguyện còn chỉ cho chính tôi nhìn thấy cảnh có những nhà lượn SH hay Dyland gì đó, ( tôi vốn không biết đi xe máy nên không để ý ) vèo vèo đến lĩnh quà từ thiện, chứ không đùa. Lúc ấy tôi cứ xấu hổ cứ như chính mình làm sai vậy.

Trong khi nhu cầu về nhu yếu phẩm của bà con vùng bão lũ chỉ cần độ 1/10 như thế, thì nhu cầu của bà con về vật liệu sửa chữa nhà cửa, bếp nước, chuồng trại như gạch ngói, gỗ lạt, nhu cầu giống vốn cây trồng , vật nuôi lại rất lớn. Thì các Đoàn hầu như hiếm khi đáp ứng được

    Bởi vậy, vai trò của Mặt trận Tổ Quốc và Hội Chữ thập đỏ ở các cấp trong những đợt quà cứu trợ khẩn cấp này rất quan trọng trong việc quyên góp , điều phối hàng và quà

Và nên quan tâm tới việc mua sắm, chuyển tới cho bà con những hoàng hóa cần thiết để khôi phục sản xuất, chăn nuôi trồng trọt , ổn định cuộc sống sau bão lũ.

    Xuất phát từ những trải nghiệm thực tế nhiều đợt cứu trợ, đại diện cho CLB nhà báo nữ VN, tôi xin bày tỏ ý định không tổ chức các chuyến cứu trợ như cũ. Vừa chồng chéo, vừa cồng kềnh, vừa không sát thực lắm, dù là đã đưa được tận tay bà con.

    Mỗi chuyến đi như vậy, các thành viên trong Đoàn thiện nguyện ngoài chuyện đóng góp tiền của, cỡ 1-2.000.000 đ hoặc hơn thế, còn phải đóng góp thêm khoảng 1.200.000đ đến 1.500.000 đ, là kinh phí cho 3-4 ngày ăn ở và tiền thuê xe cộ chở người và chở hàng. Ý nghĩa quan tâm đến đồng bào và thể hiện tình người rất quý hóa. Nhưng tiền của, nếu quy ra các loại vật dụng cần thiết như mong muốn, dù lên tới một vài trăm triệu mỗi chuyến cũng chỉ đủ trợ giúp cho vài ba chục gia đình mua vật liệu xây dựng hay cây giống, vật nuôi.

    Theo tôi, giá chúng ta dành số tiền đó chuyển sang đóng góp cho một vài địa phương hay gia đình nạn nhân cụ thể, tận xã hay tận phường ( theo các mối liên hệ đáng tin cậy như qua các đồng nghiệp Báo Đài địa phương, thống kế thiệt hại, khó khăn....), từ đó chuyển TIỀN MẶT để các hộ dân cụ thể thuộc các địa phương đó, cho bà con MUA SẮM CÁC LOẠI VẬT LIỆU XÂY DỰNG, GIỐNG CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI.... Rồi đại diện Đoàn cứu trợ sẽ nhờ các đồng nghiệp báo đài địa phương giúp cho việc giám sát, đưa tin. Hoặc Đoàn cử một vài người trong Đoàn thiện nguyện vào đối chiếu, kiểm tra. Có lẽ hữu hiệu hơn chăng?

    Cho nên, CLB nhà báo nữ VN chủ trương KHÔNG TỔ CHỨC các Đoàn cứu trợ nhu yếu phẩm như các năm trước mà sẽ tìm những phương án phù hợp hơn.

    Những tháng ngày này, chúng ta, gia đình, cá nhân nào cũng nhiệt tâm tham gia đóng góp cứ trợ Miền Trung thông qua cơ quan, trường học, các đoàn thể : Công đoàn, Thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận Tổ Quốc, Hội CTĐ. ...Vậy càng nên tích cực hơn nữa. Cụ thể là đóng góp cao hơn so với quy định tối thiểu.

    Chỉ mong các cơ quan đoàn thể hữu trách hãy cố giữ vững vai trò , tích cực hoạt động, đáp ứng lòng tin cậy của các tầng lớp nhân dân. Để cho việc cứu trợ được đúng lúc, đúng chỗ, đúng người, đúng cảnh.

    Tất cả vì đồng bào Miền Trung thân thương của chúng ta!

Gà cùng một mẹ

    Tình anh em là cái gì đó vô cùng thiêng liêng với mỗi người. Thế nhưng trên thực tế tình cảm ấy ở mỗi gia đình đâu phải diễn ra suôn sẻ. Có những gia đình anh em đoàn kết yêu thương nhau. Cũng có gia đình anh em mâu thuẫn, thậm chí huynh đệ tương tàn.

    Tình anh em là cái gì đó vô cùng thiêng liêng với mỗi người. Thế nhưng trên thực tế tình cảm ấy ở mỗi gia đình đâu phải diễn ra suôn sẻ. Có những gia đình anh em đoàn kết yêu thương nhau. Song cũng không ít gia đình lục đục, cãi vã, tị nạnh, thậm chí tranh chấp, kiện tụng nhau chỉ vì tài sản thừa kế hay bất kể những lý do nhỏ nhặt, vô duyên khác, có khi dẫn đến từ nhau. Cao hơn và tệ hơn là có những triều đại suy vong bởi các cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Thế nên, từ lâu đời các cụ ta đã rất chú trọng giáo dục con cháu coi trọng tình anh em, ví như đưa ra những quan niệm “quyền huynh thế phụ” (anh cả quyền thay cha khi cha mất, anh có nghĩa vụ chăm sóc các em và các em phải nghe anh) hay “mất cha có chú”( người chú là chỗ dựa cho các cháu con anh khi anh mất). Sự coi trọng tình anh em cũng được thể hiện rất rõ trong các ngạn ngữ, cao dao:

“Anh em như chân với tay

Vợ chồng như áo cởi ngay ra liền”…

Tôi thì tôi nhớ nhất câu cửa miệng của mẹ ngày xưa khuyên các con khi chúng tôi chí chóe :

“Khôn ngoan đối đáp người ngoài

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”

    Thật là hình ảnh dung dị khơi gợi tình yêu thương, thế nên câu ca ấy cứ hằn sâu trong tâm hồn non nớt của chúng tôi. Chẳng thế mà ở độ tuổi phá phách nhất, các anh tôi hay có những trận uýnh nhau với những đứa hàng xóm ngỗ nghịch, đôi lúc cũng có “nội chiến” anh em oánh nhau. Song hễ đứa nào đụng đến em mình là anh cả, anh hai xù lên bảo vệ. Tôi còn nhớ có lần đi xem phim ở bãi chiếu bóng thị trấn, đông đúc và chen lấn quá, anh cả tôi đã công kênh tôi trên vai để vượt đám đông và hét lên “Trời ơi, mọi người chen bẹp em tôi rồi!”

    Rồi kỷ niệm thời sinh viên nghèo tôi học chuyên ngữ mà chẳng có tiền mua từ điển. Anh cả tôi đang đóng quân xa nhà không hiểu vì sao mà biết được đã gửi thư cho tôi kèm theo 100 đồng trong đó bảo em mua từ điển. Tôi vui sướng khôn xiết và mua cuốn từ điển Pháp Việt mới nhất lúc bấy giờ. Giờ đây, thị trường có bao nhiêu loại từ điển phong phú, hiện đại, nhưng tôi vẫn giữ, vẫn dùng cuốn từ điển ấy…

    Khi có con, tôi thường ngâm nga câu ca dao “…gà cùng một mẹ…” ngày nào cho các con nghe. Thằng lớn thì thuộc lòng, ai hỏi cháu có bao giờ bắt nạt em không, nó trả lời luôn “gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Còn thằng bé dí dỏm hơn nói lái:“gà cùng một mẹ cứ hoài đá nhau!”. Nói vậy thôi, cũng như anh em tôi ngày xưa, các cu cậu nhiều khi chí chóe, nhưng thực ra anh em hắn luôn bảo vệ, yêu thương nhau.


Khởi nghiệp với bánh đa quê

Chị Lê Hồng Vân (SN 1988), xã Tăng Tiến (Việt Yên) khởi nghiệp với bánh đa quê. Hiện Công ty TNHH Joy Việt Nam do chị làm chủ đang sản xuất hàng nghìn chiếc bánh đa mỗi ngày, sản phẩm có mặt ở nhiều chuỗi thực phẩm sạch, siêu thị lớn tại TP Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc.


Chùa Việt Nam

    Việt Nam hiện có 14.775 ngôi chùa, chiếm 36% tổng số di tích Việt NamChùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, một số chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (điển hình là thờ các vị thiền sư: Từ Đạo HạnhNguyễn Minh KhôngTrần Nhân Tông và Lý Thần Tông), thờ tam giáo (Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ...
    Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền" (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏)... Một số người cho rằng từ "chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.
    Khái quát
    Theo câu tục ngữ Việt Nam "đất vua, chùa làng", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan niệm phong thủy. "Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồngphượngquy chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả.
    Các Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tretranh cho đến gỗgạchngói... Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể được. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của "công đức". Người ta tin là sẽ được hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng chùa. Trên những cột gỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các tên này cũng được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc trên các đồ sànhsứ như bát hương, bình hoa, chân đèn... trong một danh sách dài.

    Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những thời điểm có ý nghĩa trong đời sống nhân dân làng quê Việt Nam. Thường có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này.

    Chùa Minh Thành (Gia Lai), hình ảnh phục dựng tiêu biểu kiến trúc thời Lý, Trần. Kết cấu đấu-củng, mái ngói Ngói lưu ly truyền thống Việt.

Chùa DâuBắc Ninh

    Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa.
Phân loại theo cấu trúc

Mặt bằng chùa chữ Đinh

Mặt bằng chùa chữ Công

Mặt bằng chùa chữ Tam

Mặt bằng chùa chữ Quốc
Chùa chữ Đinh

    Chùa chữ Đinh (丁), có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường ở phía trước. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Hàchùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụchùa Bích Động (Ninh Bình); chùa Trăm Gian (Hà Nội); chùa Dư Hàng (Hải Phòng),...
    Chùa chữ Công
    Chùa chữ Công (工) là chùa có 'nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu (Hội An); chùa Keo (Thái Bình),...
    Chùa chữ Tam
    Chùa chữ Tam (三) là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Chùa Kim Liênchùa Tây Phương ở Hà Nội có dạng bố cục như thế này.
    Chùa kiểu Nội công ngoại quốc
    Chùa kiểu Nội công ngoại quốc là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ Công (工), còn phía ngoài có khung bao quanh như bộ Vi (口) bao bên ngoài như ở chữ Quốc (國).
    Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan.
    Chùa kiểu chữ Công (宮) là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều.
Kiến trúc

Cột kinh cổ nhất Việt Nam tại Chùa Nhất Trụ, Ninh Bình

Tháp Chùa Keo, Thái Bình

    Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và không gian khác nhau, ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu chữ Tam phổ biến hơn miền Nam hơn ở miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa của người Khmer xây theo kiến trúc của Campuchia và Thái Lan - vốn ảnh hưởng văn hóa của đế chế Khmer. Chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng.
    Tam quan
    Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.
    Sân chùa
    Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnhhòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp được xây dựng ở đây như ở chùa Dâuchùa Thiên Mụ.
    Bái đường

chùa Bái ĐínhNinh Bình

    Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào quy mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.
    Chính điện
    Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt Nam.
    Hành lang
    Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba gian.
    Hậu đường
    Qua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà tăng đường (còn gọi là nhà hậu đường), cũng còn gọi là nhà tổ. Nhà hậu đường ở một số chùa trong miền nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía bàn thờ Phật.

Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninhchùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang...

Ngoài công trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được trồng và chăm chút cẩn thận. Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen...
Bài trí tượng thờ trong chùa

Do lịch sử truyền nhập Phật giáo ở Việt Nam, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại thừa. Do đó, ở nhà chính điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, chúng ta thấy có nhiều tượng PhậtBồ Tát cùng với các tượng thuộc những hệ phái Phật giáo khác.
Tượng bày trong chính điện

Tượng Phật sơn son thếp vàng trong chùa (ảnh chụp tại chùa Trăm Gian, Hà Tây)

Chính điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của sự thờ cúng trong chùa. Ở đây có nhiều lớp bàn thờ làm thành bậc từ cao xuống thấp. Vị trí các tượng được thay đổi linh hoạt theo từng chùa. Có những chùa có rất nhiều tượng như chùa Mía ở Hà Tây, có tới 278 pho tượng, chùa Trăm Gian ở Hà Tây có 153 pho tượng... Các lớp bàn thờ được sắp xếp theo nguyên tắc sau: lớp bàn thờ cao nhất ở sâu trên cùng giáp mái chùa, sau đó các lớp bàn thờ đặt tượng cứ thấp dần, tiếp sau lớp bệ thờ cuối cùng bao giờ cũng là hương án. Nguyên tắc bài trí khá uyển chuyển và linh hoạt đối với mỗi chùa. Tuy vậy, một số nét chung thường thấy như sau:
Tầng cao nhất của bàn thờ ở chính điện, sát vách, thường có 3 pho tượng gọi là "Tam thế Phật", tức là các vị Phật của ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Một trong các Phật quá khứ là Phật Nhiên Đăng, Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mầu Ni, Phật tương lai sẽ là Bồ Tát Di Lặc (hiện tại đang thuyết giảng ở nội cung trời Đâu Suất, sẽ hạ sinh trong vài triệu năm nữa, sau khi Phật pháp bị trôi vào lãng quên). Ba tượng Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, ngực có chữ vạn (+), mình có sắc hoàn kim sáng rực, mặt nguyệt. Ba pho tượng Tam thế được đặt ngồi trên tòa sen.
Phía dưới ba pho tượng trên thường xếp ba pho tượng gọi là "Di Đà tam tôn" (còn gọi là "Tây phương tam thánh") gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm (tiếng Phạn: Avalokiteśvara) ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải. Tượng Phật A Di Đà thường có kích thước lớn hơn các tượng khác. Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích cao 1,82 m, trong tư thế ngồi toạ thiền, không kể bệ và đài sen; tượng này ở chùa Bần Yên Nhân (Hưng Yên) cao tới 2 m, không kể bệ và đài sen. Hai tượng còn lại là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà nên thường được tạc kiểu đứng chầu bên cạnh. Bộ "Di Đà tam tôn" được đặt ở tầng thứ hai để tỏ ý là mặc dù các ngài ở cõi Cực lạc nhưng vẫn có duyên và gần gũi với cõi Sa bà này, gần gũi với chúng sinh.
D­ưới ba pho tượng "Di Đà tam tôn", đã nói bên trên, thường là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni (còn gọi là Thích ca giáo chủ) ngồi giữa với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Bộ ba tượng này thể hiện cảnh Phật Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp. Có nhiều nơi, thay vào vị trí của Văn Thù và Phổ Hiền là hai đệ tử của Thích Ca là Ca Diếp và A Nan Đà khi Phật Thích ca còn đang ở thế gian.
Ở lớp ban thờ thứ tư, chiếm vị trí ở giữa là tượng Cửu Long. Hai bên là tượng Đế Thích và Phạm Thiên. Tượng Cửu Long diễn tả Phật Thích Ca Mầu Ni lúc mới sinh. Theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm. Tắm xong, ngài tự đi được bảy bước về phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn" (trên trời, dưới trời chỉ có một ta), xong ngài lại nằm xuống theo kiểu con trẻ. Đế Thích là vua chủ tể cõi trời dục giới, còn Phạm Thiên là vua chủ tể cõi trời sắc giới. Vì là vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế: đội mũ miện, ngồi trên ngai.

Tượng gỗ cổ A-la-hán tại chùa Bút Tháp

Trên bàn thờ chính ở nhà thượng điện, ngoài tượng Phật A Di ĐàPhật Thích Ca, ở một số chùa còn có tượng Phật Di Lặc. Tượng được tạo với bộ mặt tươi cười, áo phanh, để hở cái bụng to. Thường hai bên tượng này, người ta còn đặt ở bên trái tượng Pháp hoa lâm Bồ Tát, bên phải là Đại diệu tướng Bồ Tát, gọi chung là Di Lặc Tam Tôn. Ngoài ra, ở một số chùa, sau lớp tượng Cửu long, người ta còn bày bốn pho tượng Tứ Thiên Vương. Đó là bốn vị Thiên Vương phân nhau cai quản bốn cõi ở bốn phía núi Tu-di, nơi ngự trị của Đế Thích. Có chùa lại bày tượng Tứ Bồ Tát vào vị trí của Tứ Thiên Vương. Những chùa rộng rãi còn bày thêm tượng tám vị Kim cương (Bát bộ Kim cương) ở hai bên sát chính điện, mỗi bên bốn vị, mặc giáp trụ và cầm vũ khí.

Tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay cũng thấy được bày bổ sung vào điện chính. Cần lưu ý là các tượng Đức Quan thế âm có nhiều biến thể nhất trong các chùa ở Việt Nam và các biến thể này hầu hết lại được diễn tả bằng hình tướng nữ: Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Quan Âm Thị Kính. Cũng ở nhà chính điện, ở hai bên dãy bàn thờ chư Phật có thể gặp lại tượng thờ Thái thượng Lão quân ở bên phải và Khổng Tử ở bên trái. Đây là hai vị tổ của Đạo giáo và Nho giáo được thờ trong điện thờ Phật của các chùa để diễn tả tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" của xã hội Việt Nam xưa.
Tượng bày trong bái đường

Tượng bày trong bái đường chùa Vĩnh Nghiêm, TP HCM
    Trong nhà tiền đường (gian bên cạnh của nhà bái đường) thường có hai tượng Hộ pháp là những vị thần bảo vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí, đứng hoặc ngồi trên lưng sấu, một loại sư tử huyền thoại. Kích thước của tượng rất lớn, đắp bằng đất thó. Dân gian vẫn nói "to như ông Hộ pháp" là cách nói so sánh với hai tượng này. Còn một số thuyết khác, đã thành phổ biến, cho rằng tượng vị bên trái là Khuyến thiện (gọi tắt là ông Thiện), tượng vị bên phải là Trừng ác (gọi tắt là ông Ác). Theo thuyết này thì việc bày đối xứng hai tượng ông Thiện-Ác nói lên sự tồn tại biện chứng của hai bản nguyên Thiện-Ác.

    Ở phía Đông nhà bái đường có ban thờ tượng Thổ địa thần, có một số chùa đưa tượng này ra thờ riêng ở một miếu bên cạnh chùa. Ở một số chùa, bên cạnh thờ Thổ địa thần ta gặp bàn thờ Long thần. Theo truyền thuyết, Long vương vốn lúc đầu định hãm hại Phật tổ, phá hoại sự nghiệp của Phật, không cho thành chính quả nhưng đã không phá nổi nên đã quy Phật và hộ trì Phật pháp.

    Phía Tây nhà bái đường thường có pho tượng Thánh tăng. Tượng này được bày nhiều nhất ở nhà tăng đường (nhà tổ). Ở nhà tổ, ngoài tượng các vị sư từng trụ trì ở chùa, còn có bàn thờ đặt tượng Bồ Đề Đạt Ma, nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ 6, được coi là người sáng lập Thiền Tông ở đó.

    Ở nhà bái đường, đôi khi còn có các bàn thờ mười vị Diêm Vương, được gọi là thập điện Diêm Vương, tức mười vị vua cai quản mười tầng địa ngục.
    Tượng bày ở nhà hành lang
    Nhà hành lang có thể là hai dãy nhà chạy song song ở hai bên nhà chính điện. Cũng có thể là hai dãy như vậy mà chung mái với nhà điện chính và mang đúng nghĩa là hành lang, theo hai lối hành lang này có thể đi tiếp vào hậu đường. Người ta thường bày tượng 18 vị Tổ truyền đăng, mỗi bên 9 tượng. Có chùa như chùa Keo ở Thái Bình, các tượng Tổ truyền đăng được bày ngay ở tiền đường. Còn ở chùa Tây PhươngHà Tây lại là các tượng Tổ (trong 28 vị) người Ấn Độ mà Thiền tông Trung Quốc thừa nhận. Kích thước tượng Tổ truyền đăng tương tự như người thực, các vị ngồi trên tảng đá hay gốc cây, mỗi vị có một tư thế riêng, có dáng đang duy nghĩ trầm mặc. Sự đông đảo và đa dạng của các pho tượng này đã cho ra đời một thành ngữ "bày la liệt như La Hán". Cũng có khi tượng La Hán được bày ở nhà hậu đường.
Tượng bày ở nhà tăng đường

Tượng Phật tại chùa Bút Tháp

    Nhà tăng đường còn gọi là nhà hậu đường vì nằm sau chính điện, có thể được xây tách rời hoặc liền sát với chính điện. Cách bố trí tượng thờ ở nhà hậu đường cũng khá đa dạng, nhưng có thể hình dung một công thức sau: Gian giữa của nhà tăng đường thường có bày tượng Thánh tăng (còn gọi là A-nan-đà) và tượng Đức tổ Tây. Đức tổ Tây có pháp danh là Bồ-đề-đạt-ma. Ngài được coi là sư tổ thứ nhất của Thiền tông ở Trung Quốc.

    Ở nhà hậu đường của một số chùa còn bày tượng Quan Âm tống tử và Quan Âm tọa sơn. Hai bên tượng Quan Âm tống tử thường có hai tượng Kim đồng và Ngọc Nữ, hay hai tượng Thiện tài và Long nữ.
    Chùa Việt Nam còn có một điều đặc biệt đó là có các bàn thờ chư vị tức là các vị thánh của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Đó là bàn thờ Mẫu, tức nữ thần mẹ. Có nhiều Mẫu như: Mẫu Thượng NgànMẫu ThoảiMẫu Địa PhủMẫu LiễuTứ pháp...

    Trong một số chùa, đằng sau điện thờ Phật là hậu cung thờ một vị thần. Các vị thần được thờ đều là những "nhân thần", có nghĩa là những con người được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học tập, tu luyện, đã có tài thần thông biến hóa, nghĩa là có những khả năng của một vị thần. Nhờ những khả năng đó, họ cứu dân giúp nước và vì vậy, họ được nhân dân một vùng hay nhiều vùng thờ phụng.

    Ngoài ra, các nhân vật lịch sử thực sự cũng được thờ tại chùa. Họ là những ông quan, những danh sĩ hay những vị tướng đã có công với nước hay với nhân dân một vùng như Mạc Đĩnh Chitrạng nguyên thời nhà Trần được thờ ở chùa DâuBắc Ninh hay Đặng Tiến Đông, vị tướng thời nhà Tây Sơn, được thờ ở chùa Trăm GianHà Tây. Trong các chùa này, thường có tượng chân dung các nhân vật lịch sử được thờ.

    Một hình thức thờ tự khác gắn với các chùa Việt Nam là thờ "hậu". Hình thức này có mối liên hệ với tập tục thờ cúng tổ tiên đã hình thành lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người không có con muốn được thờ cúng sau khi chết, đã tìm đến nhà chùa. Họ đóng góp cho chùa một số tiền hay ruộng đất và xin nhà chùa cúng lễ họ sau khi chết. Sự thờ cúng này gọi là thờ "hậu". Trong nhiều chùa, bàn thờ "hậu" thường là một hành lang với những bát hương, đặt trước những tấm bia đá, gọi là bia "hậu", trên đó có khắc rõ tên tuổi, quê quán của những người không có con cháu nối dõi, thường là cả vợ và chồng, cùng với số tiền họ đóng vào chùa và yêu cầu được thờ ở chùa. Ở chùa Cổ Lễ Nam Định, các bia hậu được gắn dày đặc trên tường hành lang bao quanh chính diện.
Các pháp bảo trong chùa
    Bát
    Bát là một trong 6 vật dụng của nhà sư. Cái bát bắt nguồn từ truyền thuyết kể về chiếc bát khất thực. Ở các tượng của Phật A-di-đà hay Thích Ca Mâu Ni có thể đôi khi bắt gặp cái bát trên hai tay.
    Liên hoa
    Liên hoa (hay hoa sen) tượng trưng cho diệu pháp của đạo Phật, cùng một lúc có cả hoa và quả, sinh nở ra nhiều điều tốt lành. Trong điêu khắc và hội họa Phật giáo, hoa sen thường xuyên được xuất hiện. Chư Phật, Chư Bồ Tát đều ngồi trên tòa sen và những người được Phật độ về cõi Tây phương Cực lạc đều ngồi trên tòa sen.
    Chuông

Tháp chùa Phổ Minh, Nam Định
    Ở mọi thời đại, chuông được dùng để thức tỉnh và gọi. Tiếng chuông ngân lên rồi tắt lụi, có thể nghe được mà không bắt được. Sự vô thường của thế giới hiện hữu là một tư tưởng của Phật giáo. Mọi thứ đều sẽ tàn lụi, chúng hiện hữu trong cảm giác người quan sát nhưng lại không có thực. Giống như tiếng chuông, mọi thứ đều nhất thời. Theo nghi lễ Phật giáo, chuông được dùng để kêu gọi tín đồ cầu nguyện và lễ Phật. Có hai loại chuông: chuông to dùng để treo trên gác Tam quan hay ở nhà Bái đường, có thể nặng tới vài trăm kg; loại chuông thứ hai là chuông nhỏ hơn, tượng trưng, thường đặt ở tay một số vị thánh như Tứ đại Thiên Vương hay Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.
Gương

    Chiếc gương tượng trưng cho sự hư không và nó phản ánh tất cả mọi yếu tố của thế giới hiện hữu nhưng lại thu lấy bản chất của chúng. Thế giới hiện tượng được phản chiếu đầy đủ nhưng toàn thể bản chất chỉ là hư ảo, mọi sự chỉ là ý tưởng chủ quan mà người ta có vật ấy, Vì thế, gương diễn tả sự phù du của ảo ảnh vật chất. Gương có thể được đặt trên tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay hay một vài pho tượng Tôn giả.
Một số chùa tiêu biểu ở Việt Nam

Chùa Phước Điền, Châu Đốc

Chùa Dơi ở Sóc Trăng

Chùa KeoThái Bình
An GiangChùa Phước ĐiềnChùa Phật LớnChùa Tây An
Bắc GiangChùa Bổ Đàchùa Vĩnh Nghiêm
Bắc NinhChùa Bút ThápChùa DâuChùa Phật Tích, Chùa Phúc Lâm, Chùa Cổ Lũng
Đà LạtThiền viện Trúc LâmChùa Linh Phước
Nha TrangChùa Long Sơn,Thiền viện Trúc Lâm (Nha Trang)
Quảng NamChùa Cầu,Chùa Đông Phước
Hà NộiChùa ThầyChùa HươngChùa Tây PhươngChùa Trăm GianChùa Một CộtChùa Trấn QuốcChùa Quán SứChùa LángChùa Bối KhêChùa Mía, Chùa Đậu, Chùa Mui... thiền viện trúc lâm Sùng Phúc, Chùa Bồ Đề, chùa Hà, Chùa Đình Quán,...
Hải DươngChùa Trăm GianChùa Côn Sơn và quần thể di tích Chí LinhChùa Thanh MaiChùa Gang
Hưng YênChùa Chuông
Ninh BìnhCác chùa ở Hoa Lưchùa Bái Đínhchùa Bích Độngchùa Non Nướcchùa Nhất Trụ.
Hà NamChùa Tam Chúc, Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự
Nghệ An : Chùa Đại Tuệ,Chùa Ân Hậu,Chùa Cần Linh, Chùa Vĩnh Phúc, Chùa Lô Sơn,Chùa Chung Linh, Chùa Song Ngư, Chùa Cổ Am, Chùa Bảo Minh, Chùa Chí Linh,Chùa Phúc Quang, Chùa An Thái,Chùa Càng Môn,Chùa Phúc Thành,Chùa Bảo Lâm, Chùa Yên thái,Chùa Diệc, Chùa Phú Lạc,Chùa Phổ Môn,Chùa Hà,Chùa Yên Lạc,Chùa Đức Hậu,Chùa Bảo Quang (Chùa Đạt) ,Chùa Lam Sơn,Chùa Đức Sơn, Chùa Phúc Yên,Chùa Long Hoa, Chùa Đồng Tượng, Chùa Đế Thích,Chùa Vàng, Chùa Bát Nhã,Chùa Lâm Hà, Chùa Lam Sơn.
Thành phố Hồ Chí MinhChùa Vĩnh NghiêmChùa Giác LâmChùa Ấn Quang
HuếChùa Thiên MụChùa Quốc ÂnChùa Từ ĐàmChùa Báo Quốc
Nam ĐịnhChùa Keo Hành ThiệnChùa Phổ MinhChùa Cổ LễChùa Ngọc Tiên.
Quảng NinhChùa Quỳnh LâmChùa Yên Tử, Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử (chùa Lân), Thiền Viện Trúc Lâm Giác Tâm (Chùa Cái Bầu), Chùa Ba Vàng...
Hải Phòng: Chùa Cao Linh, Chùa An Đà, Chùa Hào Khê,...
Thái BìnhChùa Keo
Vĩnh PhúcChùa Vĩnh Khánh, Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên,...
Sóc TrăngChùa Mã Tộc (hay Chùa Dơi), Chùa Chén Kiếu, Chùa Nhu Gia, Chùa Đất Sét, Chùa Phật Học, Chùa Hương Sơn...
Tiền GiangChùa Vĩnh Tràng
Chú thích
^ Sách An tượng tam muội ở chùa Xiển PhápHà Nội.

^ Đình và chùa khác nhau như thế nào
^ Chùa làng
^ Kiến trúc chùa ở Việt Nam
Tham khảo
Chùa Việt Nam, Viện khoa học Xã hội Việt Nam, 1993.
Vào chùa thăm Phật, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1991.
Nguyễn Bá Lăng, (1972), Kiến trúc Phật giáo VN, tập I, Vạn Hạnh XB.
Nguyễn Phan Quang, (1993), Chùa Việt Nam qua ca dao, bản vi tính trong kỷ yếu "Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại", Viện nghiên cứu Phật học VN, TP. HCM.
Thích Tâm Thiện, (1995), Tư tưởng Mỹ học Phật giáo, Thành hội Phật giáo TP. HCM xb.
Võ Văn Tường, (1992), Việt Nam Danh Lam cổ tử, Nhà xuất bản KHXH, Hà Hội.
Võ Văn Tường, (1995), Những ngôi chùa nổi tiếng VN, Nhà xuất bản Thông tin, Hà Nội.
Vũ Tam Lang, (1991), Kiến trúc cổ Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, Hà Hội.

Dự án Chùa Tầng - An Dương - Tân Yên - Bắc Giang

Gọi đầu tư các nhà doanh nghiệp kinh doanh trên mọi miền Tổ quốc:

http://doanhnghiepbacgiang.wordpress.com/

http://tinhdaubacgiang.com/

Lịch sử di tích

Cái gì tạo ra phải độc và lạ mới thu hút

To nhất; độc đáo

Xây dựng bằng Robot

https://sites.google.com/site/phatphapbacgiang/an-duong/chua-tang

Các bước thực hiện xây dựng Chùa
Thủ tục xin phép xây dựng chùa, miễu

Cơ sở pháp luật:

Luật Di sản văn hóa 2001. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH-QH11. Luật Di sản văn hóa 2009 sửa đổi. Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo.

    Nội dung phân tích:

    Đầu tiên, cần phải làm rõ công trình tín ngưỡng và công trình tôn giáo nào thuộc diện phải xin giấy phép xây dựng khi xây dựng mới. Theo Điều 34 Nghị định 92/2012/NĐ-CP thì:

    "Điều 34. Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo phải xin cấp giấy phép xây dựng



    1. Công trình tín ngưỡng là những công trình như: Đình, đền, am, miếu, từ đường, nhà thờ họ và những công trình tương tự khác.
    2. Công trình tôn giáo là những công trình như: Trụ sở của tổ chức tôn giáo, chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh đường, thánh thất, niệm phật đường, trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, tượng đài, bia, tháp và những công trình tương tự của các tổ chức tôn giáo."
Xin cấp phép xây dựng ngôi miếu trên địa bàn thôn của bạn thuộc diện cần xin giấy phép xây dựng.

    Trình tự thực hiện như sau:

    a) Bước 1: Phòng Nội vụ các huyện, thị xã tiếp nhận và xem xét cụ thể Hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng công trình tôn giáo với số lượng và thành phần như sau:

- Số lượng: 03 bộ;

- Thành phần hồ sơ gồm:

+ Đơn xin cấp giấy phép xây dựng (mẫu kèm theo);

+ Bản vẽ thiết kế xây dựng công trình bao gồm: các bản vẽ thiết kế thể hiện vị trí mặt bằng, mặt cắt, các mặt đứng chính; mặt bằng và mặt cắt móng của công trình; sơ đồ vị trí hoặc tuyến công trình; sơ đồ hệ thống và điểm đấu nối kỹ thuật cấp điện, cấp nước, hệ thống thoát nước thải, nước mưa. Riêng đối với công trình sửa chữa, cải tạo yêu cầu phải có giấy phép xây dựng thì phải chụp hiện trạng công trình;

+ Giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai (có công chứng);

+ Ý kiến chấp thuận bằng văn bản của tổ chức giáo hội cấp trên.

    b) Bước 2: Sau khi xem xét tính hợp lệ và đầy đủ của hồ sơ, Phòng Nội vụ có ý kiến (đồng thuận hay không đồng thuận) bằng văn bản trình Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ xem xét; chủ đầu tư trực tiếp nhận lại và nộp cho Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ văn bản của Phòng Nội vụ và 03 bộ hồ sơ đính kèm;
    c) Bước 3: Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ tiếp nhận hồ sơ, trong thời gian không quá 10 ngày làm việc sẽ xem xét và có ý kiến trả lời chủ trương bằng văn bản cho Phòng Nội vụ và chủ đầu tư;

- Sau khi tiếp nhận Phòng Nội vụ sẽ lưu trữ một bộ hồ sơ, đồng thời giao trả 02 bộ hồ sơ còn lại cho chủ đầu tư, với thành phần mỗi bộ hồ sơ bao gồm:

- Đơn xin cấp giấy phép xây dựng nhà ở;


- Bản vẽ thiết kế xây dựng công trình bao gồm: các bản vẽ thể hiện vị trí mặt bằng, mặt cắt, các mặt đứng chính; mặt bằng và mặt cắt móng của công trình; sơ đồ vị trí hoặc tuyến công trình; sơ đồ hệ thống và điểm đấu nối kỹ thuật cấp điện, cấp nước, hệ thống thoát nước thải, nước mưa. Riêng đối với công trình sửa chữa, cải tạo yêu cầu phải có thì phải chụp hiện trạng công trình;

- Giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai (có công chứng);

- Văn bản trả lời của Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ.

    d) Bước 4:

    - Xin giấy phép xây dựng nếu được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ, tùy theo quy định của UBND cấp huyện, chủ đầu tư nộp toàn bộ 02 bộ hồ sơ nêu trên tại bộ phận tiếp nhận và giao trả kết quả thuộc UBND các huyện, thị xã hoặc tại Phòng Công thương huyện (hoặc Phòng Quản lý đô thị Thị xã) để được xem xét cấp giấy phép xây dựng theo quy định.

    - Sau khi UBND cấp huyện ra văn bản cấp giấy phép xây dựng, đề nghị gửi các nơi nhận như sau: Chủ đầu tư; Sở Xây dựng; Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ; UBND cấp xã nơi xây dựng công trình để biết và lưu hồ sơ.

"Đánh thức" Khu du lịch tâm linh sinh thái núi Dành - Tân Yên, Bắc Giang

 Bỏ ngỏ nhiều tiềm năng 

Cách TP Bắc Giang hơn 15 km, trên núi Dành có nhiều thông, keo vi vu. Đây là địa danh từng được nhắc tới trong sách "Đại Nam nhất thống chí", trong đó có đoạn: “Núi Chung Sơn ở xã Bảo Lộc, thuộc địa giới Yên Thế sản xuất ra sâm Nam và cỏ Thi”. Quần thể khu du lịch này gồm nhiều công trình như: Đền Trình, đền Hạ, đền Thượng, chùa Không Bụt, đình Vường và hơn 30 ha rừng thông, keo, bạch đàn có độ tuổi trên chục năm, tạo thành một không gian văn hóa tâm linh, sinh thái thu hút đông đảo người dân đến hành hương, thưởng ngoạn. 
Chưa có hình ảnh
Du khách tham quan
Từ lâu, người dân trong vùng thuộc lòng câu ca: "Sâm Nam nổi tiếng núi Dành/Chợ đầy nhan nhản những hành Chung Sơn/Sông Thương uốn khúc lượn quanh/Cá nhiều tôm sẵn Lãn Tranh giỏi chài". Ông Nguyễn Khắc Lừng, Trưởng thôn Hậu, xã Liên Chung, Phó Ban quản lý Khu di tích núi Dành cho biết: Khoảng hơn chục năm trở lại đây, ngày nào cũng có người đến tham quan, đi lễ ở núi Dành. Trước đây mọi người muốn lên đền Thượng phải leo qua những lối mòn nguy hiểm. Từ năm 1990, nhân dân trong vùng đã công đức xây 345 bậc đá từ chân núi lên đền Thượng, do vậy việc leo núi trở nên dễ dàng hơn nhiều. Ngoài ra, vùng này còn một số sản vật độc đáo khác như: Nem nướng và “đặc sản” hát ống, hát ví - một loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc còn giữ được. 
Vào những ngày nghỉ, dịp cuối tuần, học sinh, sinh viên thường tổ chức leo núi, có nhóm cắm trại trên núi. Ngày lễ, tuần rằm, du khách thập phương về dâng hương tấp nập, tạo nét văn hóa tâm linh. Hằng ngày, Ban quản lý Khu di tích cử người trông coi và bảo vệ rừng... Mặc dù được nhiều người biết đến nhưng lâu nay du lịch núi Dành vẫn chưa được “đánh thức”, các hoạt động lữ hành hầu hết tự phát, người dân chưa thực sự được hưởng lợi từ du lịch. 
Ông Nguyễn Khắc Lừng thông tin rằng, cấp trên đã có chủ trương xây dựng một tòa tháp trên đỉnh núi, đứng ở đây có thể quan sát cả một vùng rộng lớn. Tuy nhiên, điều mà ông Phó Ban quản lý Khu di tích núi Dành cũng như người dân và khách thập phương trăn trở là cơ sở hạ tầng, giao thông và các di tích nơi đây đã bị xuống cấp, dịch vụ vui chơi giải trí cơ bản chưa có. 
Điểm du lịch tâm linh, sinh thái 

Đoàn khảo sát tại khi vực núi Dành
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch núi Dành vừa được UBND huyện Tân Yên hoàn thiện trình UBND tỉnh phê duyệt có tổng diện tích 85,5ha, định hướng từ nay đến năm 2020, một số hạng mục dự kiến sẽ được đầu tư xây dựng như: Tháp đền Dành cao 9 tầng, bãi đỗ xe, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, nơi trưng bày, giới thiệu sản phẩm, xây mới hệ thống đường giao thông quanh núi Dành... Đây sẽ là cơ sở quan trọng để Tân Yên từng bước đưa ngành "công nghiệp không khói" phát triển. 
Ông Nguyễn Xuân Tuyển, Trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin huyện cho biết: Xác định du lịch tâm linh gắn với sinh thái ở núi Dành là một trong những lợi thế lớn của địa phương, huyện Tân Yên đã thành lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch và xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch nhằm khai thác tiềm năng du lịch tại đây. Ngoài việc bảo vệ cảnh quan, môi trường thiên nhiên, mở rộng diện tích trồng rừng, huyện cũng quan tâm khôi phục, bảo tồn lễ hội và nghệ thuật dân gian hát ống, hát ví, nghề làm nón truyền thống, liên kết với Trung tâm xúc tiến du lịch tỉnh xây dựng các tuyến du lịch trên địa bàn…
Quang cảnh Núi Dành
 Đi đôi với các biện pháp trên, ngành chức năng huyện đề ra một số hướng đi nhằm đưa du lịch phát triển trong thời gian tới như: Ưu tiên kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và mời gọi các nhà đầu tư vào lĩnh vực nhà hàng, dịch vụ lưu trú, vui chơi, giải trí. 
Bên cạnh đó, hỗ trợ người dân phát triển các nghề thủ công, sản xuất sản vật ẩm thực như: Hành muối, nem nướng, sâm Nam; tăng cường tuyên truyền, quảng bá du lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng và ấn phẩm du lịch. Phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, nâng cao nhận thức của nhân dân đối với hoạt động du lịch gắn với bảo đảm vệ sinh môi trường cảnh quan sinh thái rừng… 
 Bằng những giải pháp trên, hy vọng sẽ từng bước đưa núi Dành trở thành điểm đến hấp dẫn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương trong tương lai gần. 

Những điều chưa biết về đại danh y Tuệ Tĩnh

    Về Thiền sư Tuệ Tĩnh và Đại danh y Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác, hai nhà y thuật lớn nhất nước Nam, không người Việt nào không biết.

Văn miếu Mao Điền

    Chúng tôi có ông bạn học khoa Địa lý, Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Hữu Oanh. Cả khóa mới có ông Oanh làm quan to, từng giữ chức Phó Chủ tịch tỉnh Hải Dương. Nghỉ hưu rồi chúng tôi mới có dịp về thăm quê nhau.

    Được biết thời kỳ đương chức, khoảng những năm 1990 - 2010, ông Oanh phụ trách mảng văn hóa xã hội, là người có công lớn trong việc bảo tồn, tôn tạo hơn hai mươi công trình văn hóa, lịch sử, tôn giáo cho quê hương, trong đó có đền thờ Chu Văn An ở núi Phượng Hoàng, khu di tích Côn Sơn thờ danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi, đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo, khu Văn miếu Mao Điền vinh danh một nền khoa bảng Nho học xứ Đông, khu đền chùa tưởng niệm Đại danh y Tuệ Tĩnh tại huyện Cẩm Giàng…

    Có thể vì là người cùng huyện, giáp xã, lại là lớp hậu sinh 600 năm của Tuệ Tĩnh thiền sư, có chút hiểu biết về cuộc đời, công trạng, tài năng, đức độ của Ngài, mà ngay từ những năm làm Bí thư Huyện ủy huyện Cẩm Giàng, ông Oanh đã đau đáu nghĩ tới chuyện trùng tu lại khu đền Bia đã quá dột nát, sập xệ?

    Và khi ông nhận chức Phó Chủ tịch tỉnh, phụ trách khối văn xã, ông liền đề xuất tỉnh và Bộ Y tế những dự định tôn vinh Đại Danh y Tuệ Tĩnh đúng vị trí bậc Tiên thánh của ngành y học nước Việt. Đền Bia được khởi công phục dựng từ năm 2001, thờ Thiền sư Tuệ Tĩnh và tiến sỹ Nguyễn Danh Nho.

    Mấy giờ vãng cảnh đền Bia, một công trình lịch sử văn hóa tâm linh vào hạng di tích cấp quốc gia, với sự hoành tráng kỳ khu của công trình kiến trúc, sự cổ kính thâm nghiêm của chiều sâu lịch sử, sự rộng lớn về quy mô, sự nối tiếp di nguyện của người xưa bởi những vườn thuốc nam được chăm sóc trong khuôn viên đền… mới thấy nơi đây đáng là một địa chỉ hành hương của du khách cả nước.

    Về Thiền sư Tuệ Tĩnh và Đại danh y Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác, hai nhà y thuật lớn nhất nước Nam, đều quê xứ Đông (quê cụ Lê Hữu Trác ở Liêu Xá, Yên Mỹ, Hưng Yên), không người Việt nào không biết.

Ảnh: tapchidongy.org

    So với Hải Thượng Lãn Ông (1720 - 1791) Đại danh y lừng lẫy trời Nam, cuộc đời Thiền sư Tuệ Tĩnh sóng gió và bí ẩn hơn nhiều. Cậu bé Nguyễn Bá Tĩnh sinh năm 1330 tại làng Xưa ( tức Nghĩa Phú), trong một gia đình nghèo. Sáu tuổi mồ côi cha mẹ, phải dời làng đến chùa Giám, tức chùa Hải Triều, ăn mày cửa Phật, làm chú tiểu. Được các sư trụ trì yêu mến dạy chữ, Nguyễn Bá Tĩnh chóng tinh thông Phật pháp, y lý, văn chương, được nhận pháp danh Tuệ Tĩnh, tự Linh Đàm, biệt hiệu Tráng tử Vô dật, Hồng Nghĩa.

    Năm Tân mão 1351, thời vua Trần Dụ Tông, ở tuổi 22, ông thi đỗ Thái học sinh, nhưng không ra làm quan, lại về chùa tu hành và làm thuốc. Đây là thời kỳ manh nha một nền y học thuần Việt “Nam dược trị Nam nhân” với các cây thuốc Nam, cách chữa bệnh dân gian và những đúc kết của người xưa, để sau này ra đời bộ y thư vĩ đại: "Nam dược thần hiệu" gồm 10 chương, và Hồng Nghĩa giác tự y thư, gồm hai quyển, trong đó ông dùng thơ Nôm diễn giải 500 vị thuốc Nam và 630 bài thuốc Nam chữa bách bệnh…

    Đây cũng là thời kỳ Thiền sư Tuệ Tĩnh phát tâm cùng nhân dân trong vùng xây dựng 24 ngôi chùa và hình thành ở mỗi chùa một vườn thuốc Nam, thực hiện phương châm người nước Nam dùng thuốc nam của ngài.

    Năm 1374, Tuệ Tĩnh lần nữa lại ứng thí. Lần này ông đỗ Hoàng Giáp. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “...Tổ chức thi đình cho các tiến sỹ. Ban cho Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng nhãn, bọn La Tu đỗ Hoàng giáp cập đệ và đồng cập đệ…”.

    Sử ký không chép hết danh sách các tân khoa, nhưng chắc chắn trong bọn La Tu có Tuệ Tĩnh. Sau khóa thi này, có thuyết nói rằng Tuệ Tĩnh lại không làm quan, mà trở về chùa tiếp tục hoằng pháp và làm thuốc. Lại có thuyết cho rằng Tuệ Tĩnh có ra làm quan.

    Chỉ hiềm thời kỳ này là thời Mạt Trần, vua Trần Dụ Tông bị đại bại và chết trận khi mang quân vào Thị Nại đánh Chiêm Thành (1377), tiếp đến thời vua Trần Phế đế, rồi Trần Thuận Tông rối ren mục nát để cho Chế Bồng Nga nhiều phen tiến vào đốt phá Thăng Long như vào chỗ không người. Bấy giờ ở phương Bắc, thế của nhà Minh đã vững, năm 1385, tháng 3, nhà Minh sai sứ sang đòi 20 tăng nhân (Đại Việt sử ký toàn thư). Trong số này chắc có Thiền sư Tuệ Tĩnh. Và dĩ nhiên vua Minh đã chỉ đích danh Tuệ Tĩnh, vì thời kỳ này y thuật và tài năng của ông đã vang danh bốn cõi.

    Vậy là suốt 15 năm sau đó (1385 - 1400), Tuệ Tĩnh bị cầm tù nơi xứ người, bị thành quan thái giám, làm việc trong viện Thái Y. Sử liệu Trung Hoa ghi lại, Tuệ Tĩnh từng chữa cho Tống Vương phi khỏi bệnh sản hậu, được vua Minh phong Đại Y Thiền sư.

    Nhờ ông cựu phó chủ tịch tỉnh, người từng góp công lớn tôn tạo đền Bia, chúng tôi được vào bên trong hậu cung, chốn linh thiêng mà khách thường rất khó được tiếp cận. Sau tượng thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh ngồi trên ngai, uy nghi hiền từ, ông Oanh đưa chúng tôi đến phía hậu cung, nơi có tấm bia hình hộp đứng, cao chừng nửa mét, đỉnh bia hình búp sen, sơn son thếp vàng đã bong tróc hết phần chữ, đặt trong long đình.

    Chúng tôi thắp hương, kính cẩn cầu khấn.

    Người bạn gái trong đoàn, bà giáo La Ngọc Quỳnh, bỗng lảo đảo, mồ hôi ướt trán, tưởng suýt ngất xỉu. Một người bạn dìu bà giáo ra ngoài.

    - Tấm bia này là bảo vật quốc gia - ông Oanh nói. Năm 1670, làng Xưa có một vị đỗ đại khoa, nối gót Hoàng giáp Tuệ Tĩnh, đó là tiến sỹ Nguyễn Danh Nho (hiệu Sằn Hiên, sinh năm 1638, mất năm 1699). Sinh sau Tuệ Tĩnh hơn ba trăm năm, tiến sỹ Nguyễn Danh Nho là người thành đạt, làm quan tới chức Bồi tụng, Hữu Thị lang. Năm 1690, thời Lê Trung hưng, tiến sỹ Nguyễn Danh Nho trong đoàn sứ thần sang nhà Thanh, Trung Quốc, khi qua Giang Nam, đã tìm thấy mộ của Đại Danh y Tuệ Tĩnh. Tấm bia trên mộ có phiên bản giống như bia thờ đây. Trên bia ghi dòng chữ: “Ai về nước Nam, cho tôi về với”. Vì hoàn cảnh không thể đưa hài cốt ngài về nước, tiến sỹ Nguyễn Danh Nho đã thuê người sao chép bia mộ, rồi về Thăng Long tạc khắc như nguyên bản, bằng đá xanh, nặng chừng 75kg, đưa về làng Xưa.

    Chúng tôi hứng thú nghe ông Oanh kể câu chuyện chìm nổi của tấm bia mang hồn cốt hiền tài.

    - Việc đưa bia về làng tưởng xuôi chèo mát mái, nào ngờ, khi thuyền theo sông Thái Bình về đến đoạn sông giáp ranh hai làng Văn Thai và Nghĩa Phú, thì thuyền chở bia bị đắm. Đến mùa nước cạn, trục vớt bia lên, nhìn thấy doi đất nơi bia chìm có hình con dao cầu tán thuốc, dân các làng thấy đó là điềm linh, liền cho xây ở đây ngôi đền thờ bia, sau gọi là Đền Bia. Vậy là, chỉ nội trong huyện Cẩm Giàng, đã hình thành ba nơi thờ Đại Danh y Tuệ Tĩnh: Chùa Xưa ở làng Nghĩa Phú, chùa Giám, Hải Triều, nơi Tuệ Tĩnh hoằng pháp, thực hành y đức. Và đền Bia đây.

    Lễ hội Đền Bia vào ngày 1/4 hàng năm, là một sinh hoạt văn hóa, tâm linh của cả vùng Hải Đông. Khách thập phương cả nước kéo về nghìn nghịt. Lều quán giăng kín cánh đồng. Hội diễn, rước sách, truyền bá thuốc nam, y thuật, lễ hội ẩm thực… mấy ngày. Có năm vàng mã nhiều quá, gây hỏa hoạn. Đến mức quan trị nhậm địa phương không quản được, tâu lên triều đình. Đến thời nhà Nguyễn, vua Thiệu Trị cho là mê tín dị đoan, ra lệnh đục bỏ dòng chữ ở bia, giam bia vào hậu cung, để hạn chế lễ hội. Tấm bia thờ hiện nay bị xóa chữ, bong tróc sơn là do vậy…

    Dời hậu cung, chúng tôi ra sân đền, nơi bà giáo Quỳnh đang phơi những vị thuốc Nam sản phẩm của đền, cùng vị thủ từ.