Thứ Tư, 23 tháng 12, 2020

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và những lời sấm truyền

Trạng nguyên thời Mạc - Nguyễn Bỉnh Khiêm - không chỉ nổi danh nhờ tài học sâu rộng, tầm nhìn chiến lược, mà còn được người đời tôn kính vì những lời sấm truyền chính xác.

Trong lịch sử khoa cử nước ta, Nguyễn Bỉnh Khiêm là vị trạng nguyên đặc biệt. Ông không nổi tiếng vì thành danh khi còn ít tuổi.

Trên thực tế, Nguyễn Bỉnh Khiêm tham dự khoa thi đầu tiên khi tuổi đã ngoài 40. Dân gian cũng không lưu truyền nhiều giai thoại về các màn đối đáp xuất sắc hay tài ứng xử khéo léo của trạng Trình.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được triều đình đương thời trọng dụng bởi tầm nhìn chính trị rộng. Sử sách cũng như người đời thừa nhận, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, nhà tiên tri số một Việt Nam.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) hiệu là Bạch Vân am cư sĩ, thường được tôn xưng là Tuyết Giang phu tử.

Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, hiếu học. Đến khi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm cất công tìm đến bái sư học đạo.

Học vấn uyên thâm nhưng sinh phải thời đại nhiều biến cố, ông không vội tham gia khoa cử. Mãi đến năm 1535, dưới thời Mạc Thái Tông thịnh trị nhất triều Mạc, ông mới ứng thí và đỗ trạng nguyên.

trang nguyen noi tieng anh 1
Đền thờ trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ảnh: lyhocdongphuong

 

Tân khoa trạng nguyên được bổ nhiệm làm Đông các hiệu thử, rồi lần lượt giữ chức Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ lại kiêm Đông các Đại học sĩ.

Khi Mạc Hiển Tông lên ngôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ trị tội 18 lộng thần nhưng vua không chấp nhận. Năm 1542, ông xin về quê.

Hai năm sau, vua Mạc lại mời ông ra làm quan, phong tước Trình Tuyền Hầu, thăng chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Vì thế, người đời thường gọi ông là trạng Trình.

Sau này, dù không ở kinh đô, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn lo liệu việc triều chính, giúp vua bàn quốc sự. Khi có chuyện trọng đại, vua thường hỏi ý kiến ông. Việc ông khuyên nhà Mạc lên Cao Bằng đã đi vào sử sách.

Ông cũng từng khuyên Nguyễn Hoàng: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu ghi là Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân).

Không chỉ có tầm nhìn sâu rộng, Tuyết Giang phu tử còn nổi tiếng với khả năng tiên tri. Ngày nay, người đời còn lưu truyền nhiều tiên đoán được cho là của ông và gọi chung là Sấm trạng Trình.

Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng điều Nguyễn Công Trứ đi khai hoang ở Hải Dương. Nguyễn Công Trứ xem xét địa thế, thấy cần phải phá đền thờ trạng Trình để đào sông.

Sau khi người dân đào bát hương lên, ông thấy dưới bát hương có tấm bia đá phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ sai người lau sạch bia thì đọc được mấy câu:

Minh Mạng thập tứ

Thằng Trứ phá đền

Phá đền phải làm đền

Nào ai động đến doanh điền nhà bay.

Ông liền thảo sứ về triều, xin bãi bỏ lệnh phá đền, đồng thời sửa sang lại ngôi đền của vị trạng nguyên nhà Mạc.

Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể được coi là người đầu tiên trong lịch sử nước ta nhận thức được tầm quan trọng của việc gìn giữ chủ quyền biển Đông. Trong bài Cự Ngao Đới Sơn (Bạch Vân am thi tập), ông viết:

Biển Đông vạn dặm dang tay giữ

Đất Việt muôn năm vững trị bình

Chí những phù nguy xin gắng sức

Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình.

Nguyễn Bỉnh Khiêm và những tư tưởng đạo đức của ông

 Sống gần trọn một thế kỷ, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), một nhà trí thức có cuộc đời hoạt động đặc biệt, đã để lại nhiều tác phẩm thơ văn lớn phản ánh suy tư của ông về cuộc sống. Những tư tưởng đạo đức của ông phản ánh sâu sắc thời kỳ biến động dữ dội của xã hội Việt Nam thế kỷ XVI. Tư tưởng nhân đạo, thân dân, yêu hoà bình, khoan dung, gắn con người với thiên nhiên, tin tưởng vào khả năng của thế hệ trẻ… làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trở thành nhà văn hoá lớn của nhân dân Việt Nam.


Sách Công gia tiệp ký của Vũ Phương Đề viết năm 1755, sau 170 năm Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời, đã cho rằng, tiểu sử của Nguyễn Bỉnh Khiêm được chép qua tục truyền mà không có bản chính thức. Các sách sau chép lại của Vũ Phương Đề chứ không phải căn cứ theo gia phả của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hiện nay, theo Từ điển Văn học thì Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 không rõ ngày tháng và mất tháng 12 năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, nay thuộc Vĩnh Bảo ngoại thành Hải Phòng. Cha ông là Nguyễn Văn Định có văn tài, mẹ là con Thượng thư Nhữ Văn Lan. Bà là người thông tuệ am hiểu lý số.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh vào thời kỳ đại loạn của dân tộc ta. Năm 1535, lúc 44 tuổi, ông mới ra ứng thi và đậu Trạng nguyên. Làm quan cho triều Mạc, được tăng từ Lại bộ tả thị lang lên Thượng thư bộ lại, Thái phó, Trình tuyên hầu, sau được gia phong làm Trình quốc công nên người đời gọi ông là Trạng Trình. Bảy mươi tuổi, ông về hưu, sống tại quê nhà bên bờ sông Tuyết Hàn, dựng am Bạch Vân, lấy đaọ hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán xây chùa, mở trường dạy học. Học trò của ông có những người nổi tiếng như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện, Nguyễn Dữ. Ông có uy tín với cả họ Mạc, họ Trịnh và họ Nguyễn nên có rất nhiều giai thoại về Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có người cho ông là hiểu rộng; không ít người cho ông là cơ hội; có nhiều người đánh giá tài thơ của ông; song không ít người chỉ quan tâm đến hoạt động xã hội chính trị của ông. Các tác phẩm lớn của Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho đời là tập thơ chữ Hán: Bạch Vân am thi tập và tập thơ Nôm - Bạch Vân quốc ngữ thi. Ngoài ra, các tập sấm ký có tên Trình Quốc công sấm ký, Trình Tiên sinh quốc ngữ v.v. tương truyền là của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng còn rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này.

Bạch Vân am thi tập còn có tên là Bạch Vân am Trình Quốc công thi tập. Theo lời tựa của tác giả thì tập thơ gồm một ngàn bài, nhưng hiện nay còn khoảng trên dưới 300 bài làm theo thể đường luật và trường thiên cổ thể. Tập thơ nói về tâm sự, tự sự, suy nghĩ và quá trình giao tiếp của Nguyễn Bỉnh Khiêm suốt cả thế kỷ XVI. Tập thơ vừa nói sự xuất xử, vừa phản ánh các mối quan hệ, các chuyển biến của thời đại ông. Thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói nhiều về giáo huấn đạo đức. Đề tài thường mượn cảnh nói ý và tình. Một số lớn bài tả cảnh tự nhiên, không ít bài miêu tả xã hội, đặc biệt có nhiều bài thơ nói về bản thân mình, mang ý nghĩa triết lý rất nhiều. Có bài dài tới vài trăm câu.

Tập Bạch Vân quốc ngữ thi khoảng 170 bài làm theo kiểu Bát cú Hàn luật có pha lục ngôn. Đây là một tập thơ Nôm mang rất nhiều giá trị về ngôn ngữ dân tộc. Nội dung chủ yếu là tự sự nhìn lại mình, nhìn lại cuộc sống, khuyên răn đạo lý trong cõi đời loạn lạc. Tập này cũng nặng về triết lý, am tường tâm lý, hướng về giáo huấn, có giá trị mỹ học quan trọng.

Các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều nội dung khác nhau, nhưng nổi bật nhất là các tư tưởng đạo đức và có đóng góp về mặt thẩm mỹ.

Trong tế văn của Đinh Thời Trung thay mặt các sĩ tử tiễn quan trạng Trình Quốc Công về nơi an nghỉ cuối cùng nêu rõ: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà trí thức thông tuệ nhất của dân tộc Việt Nam thế kỷ XVI. Ông học tài chẳng kém Âu Dương Tu, Tô Đông Pha; đạo lớn ẩn tàng nguyên sẵn; một kinh Thái Ất thuộc lòng; suy trước, nghĩ sau; sáu bộ thi thư suốt nghĩa. Trái tim Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa ngừng đập, núi sông biến sắc vì thương cảm, sâu kiến cũng đau lòng, nhện tơ vấn vương khôn gỡ, khách buôn huyên náo, nhà nhà buồn đau, cỏ hoa ủ dột. Đạo đức của ông còn mãi sống cùng các học trò và thời đại.

Sinh ra trong một gia đình trí thức lớn của thế kỷ XV- XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt tới trình độ cao của trí tuệ đương thời, đặc biệt là về lý số. Ông thông thiên văn, đạt địa lý và tri nhân tâm. Ông khát khao cống hiến tài năng và trí tuệ cho đất nước và nhân dân. Nhưng đất nước đầy binh lửa, núi xương, sông máu chất ngất thảm thê “Mãn mục can qua khổ vị hưu” (Trước mắt đầy rẫy chiến tranh, cái khổ bao giờ hết !). Giữa cái ren rối và bất ổn của thời cuộc, dù học rộng, tài cao thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không dễ dàng toàn tâm phù Lê, phù Mạc hay phù Trịnh? Dù thông tuệ đến sâu cùng quy luật của trời đất, xã hội và lòng người, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không sao ngăn nổi khát vọng quyền lực của các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc - Trịnh. Và cuối cùng, ông đã nghiêng về giúp nhà Mạc. Trong hơn 30 năm phò bốn triều nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng nhiều cựu thần nhà Lê và sáu con trai đã đóng góp vào lịch sử phát triển đất nước một bước rất quan trọng. Về mặt đạo đức, ông đã khơi gợi sự đổi mới kinh tế và đặc biệt là sự đổi mới về tư tưởng trong quan hệ vua tôi. Khi thấy bọn gian thần lộng hành, lòng dân ly tán, đất nước ngàn cân treo sợi tóc, muôn dân lầm than thống khổ, ông đã dâng sớ để chém đầu bọn nịnh thần. Nhưng ý kiến của ông không được chấp nhận. Ông ghét bọn tham nhũng và sống thẳng thắn, cương trực. Có người cho rằng ông là người ba mang, phục vụ cả Trịnh, Nguyễn và Mạc. Qua các tác phẩm của ông thì thấy rõ tầm tư tưởng đạo đức của ông rất rộng, gắn với nhân cách kẻ sĩ lúc đó. Nếu đúng là ông phục vụ cả Nguyễn, Trịnh, Mạc thì ở đó, ta đã thấy ông nêu rõ cách xuất xử trong các thời loạn lạc phải thông minh và mềm dẻo như thế nào.

Các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai đặc điểm lớn: một là sâu sắc, hai là gần dân. Cả hai đặc điểm này đều gắn với bản chất triết lý thông tuệ và tính dân dã của ông. Sống gần trọn thế kỷ thứ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe nhiều, nhìn thấy nhiều, do đó suy tư rất nhiều. Người ta thường gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý đầy suy tư. Tính triết lý đó phản ánh rất rõ trong tư tưởng đạo đức của ông. Sau khi đã “đọc khắp muôn thiên”, ông có tham vọng tổng kết các tri thức được chung đúc trong dân gian, nâng lên hoàn chỉnh rồi lại trả về với cuộc sống thực. Vì vậy, các lời răn dạy đạo đức của ông giản dị mà sâu sắc. Hầu như ông nhìn thấy những người nông dân quanh thôn ấp đang chờ đợi lời khuyên nhủ của ông giữa cái nhân tình thế thái bon chen, thiện ác lẫn lộn. Ông dặn dò mọi người: “Giữ miệng cho hay biếng nói năng. Gìn lòng hôm sớm hãy khăng khăng”.

Sống giữa lòng dân, các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang rõ tính nhân dân. Tình cảm, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm bắt nguồn từ đời sống nhân dân và rất nhiều tư tưởng đạo đức của ông được nhân dân yêu thích đã trở thành lẽ sống thường nhật của họ. Tư tưởng đạo đức quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tư tưởng phấn đấu cho hoà bình. Khi răn dạy những điều thiện cho học trò, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rõ khát vọng thiên hạ thái bình là khuynh hướng day dứt nhất của thế kỷ mà ông sống và cũng là nguyện vọng thiết tha nhất của toàn dân tộc. Trong cái đớn đau đến tận cùng của thôn xóm đói khổ, ly tán vì chiến tranh, vợ xa chồng, con mất cha, Nguyễn Bỉnh Khiêm ước mơ có một “buổi thái bình”, “no lòng ấm cật thời Nghiêu Thuấn”. Ông biết cái thời ấy không thể dễ dàng trở lại bởi sự nứt rạn từ lòng sâu của đất nước, sự phân cực của các quyền lực không gì hàn gắn được. Nhưng dù sao, vì thương dân, vì yêu nước, ông cũng muốn mang hết “tuổi già bất tài” mà gắng sức ngày đêm làm một việc gì đó để đất nước tránh được thảm hoạ chiến tranh.

Trong tư tưởng đạo đức cơ bản của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi “nước lấy dân làm gốc”, “bền nước yên dân là việc đầu mối”. Ông  đặt vấn đề trị nước phải lấy dân làm sức mạnh. Tư tưởng đạo đức này của ông xuất phát từ một nguyện vọng xây dựng xã hội vua hiền tôi trung. Từ nguyện vọng này, ông  khuyên mọi người gìn giữ tam cương, ngũ thường và nhớ báo đáp ân chúa (Ân chúa đã nhiều chưa báo - lòng còn canh cánh ất khôn nài). Trong khi ấy, chính ông  biết rất rõ rằng, đất nước lâm vào cảnh ngộ bất ổn đến đau lòng. Kẻ giàu sang, sang trọng đến cực độ “đường đem trát chõ đồ xôi, sáp đem làm củi …”, còn người nghèo thì bị “khinh bỉ trong đám chiếu rách, nằm co lạnh lẽo bên đường”. Ông đã kêu lên rằng, “đời này nhân nghĩa tựa vàng mười”. Cái xã hội mà ông đang sống cương thường đã đảo ngược, cảnh sống phân hoá rõ rệt, nhân tình thế thái đảo điên, “nhà ở đem bẻ làm củi, trâu cày đem giết thịt ăn, chỉ trông thấy cảnh tro bùn”, “giàu sang người đến dập dìu. Bần tiện ai kẻ trọng yêu”. Trong cái nghịch cảnh ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm càng thiết tha gìn giữ một kỷ cương, mong thiên hạ bình yên. Khát vọng này tuy chỉ là một mơ ước, nhưng nó lại đáp ứng với ước mơ của cả triệu người nông dân nghèo khổ. Ông khuyên vua chúa hãy vì dân, vì nước, nhưng lời khuyên ấy không thành hiện thực.

Lòng thương người, chủ nghĩa nhân đạo trong tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm thường được thể hiện trong thơ văn. Yêu con người phải chống lại những gì làm hại con người, đó là tư tưởng đạo đức Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tư tưởng này là một bước phát triển mới về chủ nghĩa nhân đạo trong lịch sử văn hóa dân tộc. Đây là bước phát triển cả về chiều sâu và bề rộng. Nguyễn Bỉnh Khiêm thương người và tạo lập một triết lý mới: tố cáo  tin tưởng. Trong một bài văn rất nổi tiếng: Nhân tình thế thái. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tố cáo cái xã hội của ông: “Còn bạc còn tiền còn đệ tử.  Hết cơm hết gạo hết ông tôi”, dù vậy, ông vẫn tin tưởng xã hội trọng người chân thật và không ưa kẻ đãi bôi. Ông luôn tố cáo kẻ bạc ác, tố cáo sự bất công của xã hội coi trọng đồng tiền (Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bọn. Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền), đầy đọa con người nghèo khổ và tin tưởng ở sức mạnh của dân. Mặc dù Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ mong muốn xã hội trở lại một trật tự “coi dân là sức nước”, “dùng dân để kết mối vững bền”, thì mong muốn ấy cũng là ý tưởng đạo đức rất mới và rất lớn. Đó cũng chính là ý tưởng của thiên hạ và nguyện vọng ấy cũng là nguyện vọng  của muôn dân. Và do đó, ý tưởng đạo đức trong các tư tưởng của ông gắn với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.

Có lẽ, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rằng, biện chứng của đạo đức không chỉ là lòng tin và sự tố cáo, mà hơn thế phải hành động, phải lao động, phải đấu tranh vì sự no ấm và bình yên. Trong xã hội loạn lạc, một mặt, ông khuyên mọi người hãy giữ mình, mặt khác phải tự  lo cho mình, đừng chờ đợi. Tự phấn đấu để đạt tới sự bình yên là tư tưởng đạo đức quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ gắn với cuộc sống xã hội mà còn gắn cả quan hệ của con người với thiên nhiên. Theo ông, chỉ có lao động, chỉ có phấn đấu mới xây dựng được cuộc sống gắn bó với tự nhiên. Phải lao động, phải phấn đấu con người mới được hưởng hạnh phúc trong tự nhiên. Ông luôn cầu mong cho mưa thuận gió hoà. Ông mong mỏi những vụ mùa bội thu, xóm thôn no đủ, thuyền về gối bến đông vui, chợ búa đi về tấp nập, trẻ chăn trâu ca hát, làng quê yên ả, tiếng sáo diều ngân vang khắp đồng quê, người già câu cá bên suối. Khát vọng thực sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nhà được sum họp, người người được hưởng hạnh phúc. Trong tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm, để có mối quan hệ thiên - nhân tương dữ thì mỗi người phải nỗ lực. Ông ca ngợi sự gắn bó của con người với tự nhiên, chứ không phải khuyên người ta ăn bám tự nhiên, ẩn nấp vào cái tự nhiên hoang dã đầy núi cao và rừng hiểm trở. Ông ngợi ca lao động và gợi mở cho mọi người đến với tự nhiên bởi ở đó, mọi người đều sẽ trở thành những con người bình đẳng và bình dị, ở đó mọi người đều lao động và sẽ đối xử tốt với nhau. Ở đó, dù là vua chúa hay người nông dân đều hít hơi thở khoáng đạt của tự nhiên, đều ngắm trăng lồng cổ thụ, đều thả hồn vào tám hướng tranh treo. Tự nhiên là của chung, là hồn của núi sông, con người sẽ thoả chí yêu quê hương đất nước mà không có lực lượng xã hội nào kìm trói được. Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn con người với tự nhiên có cội nguồn từ Đạo giáo. Đây là tư tưởng làm cho con người khi yêu thiên nhiên thì yêu nhau hơn.

Nhiều người cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trốn vào tự nhiên, đã ở ẩn trong tự nhiên, thực hiện triết lý nhàn trong tự nhiên. Đúng là trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết rất nhiều về chữ nhàn (An nhàn ngã thị địa trung tiên - an nhàn ta là tiên trên đời). Nhưng không một nhà nghiên cứu nào về Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm được sống an nhàn, thanh nhàn. Ông đã lao động đến say mê, đã trăn trở đến nhức nhối. Hầu như ngày nào ông cũng bận bịu. Ông lo cho muôn dân, ông gắng sức rèn luyện học trò. Văn phẩm của ông để lại cho đời hàng nghìn bài trong Bạch Vân am thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi là một minh chứng. Triết lý ông gửi vào muôn trùng sông núi và ăn sâu vào ý thức xã hội. Sao lại nói rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn hạ được? Trong bài tế Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Thời Trung đã viết rằng: “Tiên sinh không bao giờ mất, bóng thu dương sáng mãi … tiên sinh là núi Thái sơn. Đạo tiên sinh còn muôn thuở”. Sự thật thì tư tưởng nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tư tưởng đạo đức khoan dung. Ông phấn đấu hết mình cho đời và không mong tranh chấp và đòi hỏi đền đáp. Con người hãy sống hoà mình vào tự nhiên, giữ lấy xích tử chi tâm, lấy lòng nhân, nghĩa mà sống.

Chữ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó chặt chẽ với ý tưởng khoan hoà của ông. Các nhà thơ lớn, các nhà tư tưởng xuất sắc ở phương Đông thường lấy thiên nhiên để thể hiện tình cảm cao thượng, phong cách ung dung tĩnh tại của mình. Lão Tử, Trang Tử  khuyên con người lấy chữ tâm, điều thiện mà hoà mình vào tự nhiên. Triết học của Lão Tử gắn với sự khoan dung, chất phác và hoà bình. Hoà nhập với thiên nhiên là hoà nhập với đất trời và khí thiêng sông núi, khát vọng của nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người vừa theo quan điểm xích tử chi tâm của Đạo giáo vừa tòng “thi ngôn chí” của Nho giáo. Trong bài tựa cuốn Bạch Vân am thi tập, quan điểm thẩm mỹ và đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện rõ ý tưởng này. Ông “thích cái đẹp của sơn thuỷ, vui cái mỹ lệ của hoa, trúc, mượn sự việc mà tự thuật”. Thích cái đẹp của tự nhiên, gắn đạo đức người quân tử với cây tùng, cây bách là lý tưởng chung về cái thiện, cái mỹ. Lý tưởng này là cơ sở của một lòng khoan dung và nhân đạo vô hạn.

Chất người Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm toát lên một chủ nghĩa nhân văn sâu rộng. Nối kết các mâu thuẫn giằng xé, hướng sự vận động của các mâu thuẫn ấy đến đối thoại các giá trị, đó là biện chứng tích cực trong tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đất nước năm phe, bảy phái, phái nào cũng đến xin ý kiến ông. Nhân dân muôn ngàn thống khổ khác nhau, người nào cũng muốn được ông mách bảo. Để thực hiện được điều ấy, học rộng, tài cao không thể đủ mà phải có cả một tấm lòng bao la, hiểu đời không cùng, thương người vô hạn. Các hoạt động nhân đạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cơ sở tập hợp các khuynh hướng đạo đức khác nhau ở thế kỷ XVI.

Người ta truyền tụng nhiều về các dự báo của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thời cuộc. Người ta nhắc nhở các lời khuyên bảo đạo đức ngắn gọn đầy thuyết phục của ông về vận mệnh tương lai của một triều đại. Các lời “sấm truyền” của Trạng Trình quả thật đã mang một ý nghĩa về lý tưởng đạo đức và tồn tại qua nhiều thế kỷ trong dân gian.

Vì đâu mà một số tư tưởng quan trọng của Trạng Trình có sức sống lâu bền trong đời sống xã hội ? Trước hết là lý tưởng đạo đức lâu dài của ông rồi đến sự thông tuệ của Trạng Trình đối với tri thức cao nhất mà phương Đông đã đạt được vào thế kỷ XVI. Sau nữa, cách nhìn sự vật và thời thế của ông không tĩnh tại. Ông coi thế gian luôn biến đổi “thoi nhật nguyệt đưa thoăn thoắt”. Nhìn sự vận động, sự phát triển trong các mối dây liên hệ, cùng với lý tưởng đạo đức và sự thông đạt tri thức thời đại; bằng mẫn cảm tuyệt vời, Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy được lôgíc phát triển của sự vật. Ý tưởng về thiện - ác là cái trục chính xoay quanh các dự báo về một nền đạo đức lâu bền của ông.

Ông nhìn đời với vẻ ân ái. Ông tin rằng, cái thiện là khuynh hướng tất yếu của sự phát triển. Quy luật tất yếu là khi phát triển đến cùng, sự vật, hiện tượng sẽ chuyển sang một dạng mới. Cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, đó là do “đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”. Ý tưởng cái thiện thắng cái ác là một ý tưởng nhân văn cao đẹp. Tất cả các nhà văn hoá lớn ở phương Đông, tuy mỗi người mỗi vẻ nhưng không ai thiếu khát vọng về cái thiện và cái mỹ. Đó là các khát vọng chung để nhân loại gặp gỡ và hiểu biết nhau. Mỗi người đều sống cho tốt; mọi hoạt động sáng tạo đều lấy cái tốt làm điểm đạt tới thì xã hội sẽ tràn ngập tình yêu và ánh sáng, thiên hạ sẽ chung hưởng thái bình.

Trên cở sở doanh hư, cơ ngẫu, tiêu trưởng, lý số, phân tích xã hội trong sự vận động và nhìn thấu suốt tận cùng cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái ác, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ ra thế đất, thế nước và biện chứng của một nền hoà bình bền vững dài lâu.

Trong các tư tưởng đạo đức của nhà văn hoá lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm có một điều rất kỳ lạ, ông luôn lạc quan. Sống gần tròn một thế kỷ, gần một trăm năm đất nước loạn lạc, ông đầy lo toan nhưng không thấy ở ông có một dấu hiệu gì về sự “lẩn thẩn”, “lẩm cẩm”, “bi quan”. Tuy suy tư dữ dội nhưng ông không sầu muộn. Ông yêu đời, yêu người, yêu học trò, yêu làng xóm, quê hương, yêu đất nước và yêu nhân dân đến tận hơi thở cuối cùng. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương có chép rằng: “Lòng Trạng không một lúc nào quên đời”. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự nói rằng: “Ái ưu rực rực trăng in nước”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm rất yêu đời nhưng không phải ông là người vô lo. Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đau cho đời nhưng ông không than thân trách phận. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta thấy có tình yêu, nỗi đau nhưng lại tràn đầy niềm tin. Chính niềm tin cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, tin nền hoà bình sẽ về với đất nước (Thái bình thiên tử, thái bình dân) mà nỗi đau, nỗi lo của ông không chứa đựng tình cảm bi quan; “tâm hồn buổi sáng như đuốc ngọc” và “Đạo Người muôn thưở tốt tươi”.

Vượt lên trên hết, giá trị tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử dân tộc là ông đã gắn tình cảm lạc quan với thế hệ trẻ. Tư tưởng về sự kế tục các thế hệ là tư tưởng đạo đức đặc sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỷ XVI, nhìn thấy mọi đổi thay của đất nước, mọi đau buồn của nhân dân, nhưng ông luôn lạc quan và tin tưởng. Ông viết rằng: “Chín mươi thời kể xuân đã muộn,/ Xuân ấy qua thời xuân khác tươi”. Tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sự trường xuân của mọi thế hệ là một tư tưởng đạo đức lớn gắn bó với toàn bộ khát vọng đạo đức chung của dân tộc. Ông không coi sự tiếp nối các thế hệ như đông tàn rồi xuân đến, như tre già rồi măng mọc. Ông cho rằng, thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia như một mùa xuân mới tiếp nối một mùa xuân muộn. Cả cuộc đời ông đã làm hết sức cho lý tưởng này. Ông tin các tài năng trẻ sẽ nở rộ, “nghé đã mọc sừng thì nhất định sừng sẽ vượt qua tai”. Ông dầy công trao gửi cho thế hệ trẻ những tri thức, niềm khát khao cuộc sống. Tuổi trẻ  không phụ công ông, đã trở thành những Nguyễn Dữ, Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoan danh tiếng, tiếp nối chí lớn của thầy, góp sức vào phấn đấu cho cái thiện thắng cái ác, cái đẹp thắng cái xấu.

 

8 khu kinh tế cửa khẩu được ưu tiên đầu tư

    Thủ tướng đồng ý chọn 8 khu kinh tế cửa khẩu trọng điểm để tập trung ngân sách đầu tư giai đoạn 2021-2025.
    8 khu kinh tế cửa khẩu được chọn bao gồm: khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn (tỉnh Lạng Sơn), khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai (tỉnh Lào Cai), khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng, khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo (tỉnh Hà Tĩnh); khu kinh tế – thương mại đặc biệt Lao Bảo (tỉnh Quảng Trị), khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài (tỉnh Tây Ninh), khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang. Như vậy, khu kinh tế cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình) đã không còn trong danh sách được tập trung đầu tư.
    Với các địa phương có khu kinh tế cửa khẩu ưu tiên tập trung đầu tư này, tỉnh có trách nhiệm cân đối vốn cho 8 khu kinh tế cửa khẩu, ưu tiên tập trung đầu tư trong giai đoạn 2021 – 2025 trong tổng số vốn ngân sách trung ương đã thông báo cho địa phương.
    Theo Bộ Kế hoạch & Đầu tư, các khu kinh tế cửa khẩu đến nay đã thu hút được trên 575 dự án trong và ngoài nước. Năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các khu kinh tế cửa khẩu đạt 28,9 tỷ USD, tăng 2,1 lần so với năm 2015. Trong đó, tại các khu kinh tế cửa khẩu giáp Trung Quốc đạt 24,8 tỷ USD, chiếm 85,8% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các khu kinh tế cửa khẩu của cả nước và chiếm 21,3% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Trung Quốc. Còn tại các khu kinh tế cửa khẩu giáp Lào và Campuchia, con số lần lượt là 1,1 tỷ USD và gần 3 tỷ USD.
    Đối với 9 khu kinh tế cửa khẩu được tập trung, ưu tiên đầu tư, số thu ngân sách năm 2019 đạt hơn 344 triệu USD, chiếm gần 70% tổng số thu ngân sách của toàn bộ 26 khu kinh tế cửa khẩu. Một số khu kinh tế cửa khẩu có mức thu đạt cao là Đồng Đăng – Lạng Sơn, Lào Cai, Móng Cái, Lao Bảo.
    Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch & Đầu tư hướng dẫn các địa phương nâng cao vai trò định hướng, dẫn dắt của nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách để thu hút, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác cùng tham gia xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội cho các khu kinh tế cửa khẩu.
    UBND các tỉnh, thành phố được giao xây dựng, chuẩn bị và thẩm định hồ sơ dự án, công trình đầu tư kết cấu hạ tầng của khu vực này phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn giai đoạn 2021 – 2025.
    Thủ tướng cũng yêu cầu các địa phương có trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc bố trí nguồn ngân sách trung ương, địa phương trong phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, đặc biệt là 8 vị trí này, đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và đảm bảo tiến độ giải ngân.

Việt Nam bắt đầu thời kỳ dân số già từ 2026

Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ dân số già từ năm 2026, với số người trên 65 tuổi chiếm hơn 10%, theo Tổng cục Thống kê.