Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

VẬN DỤNG 6 QUY LUẬT BẤT BIẾN CỦA VŨ TRỤ ĐỂ ĐẠT MỌI MỤC TIÊU MONG MUỐN – CHUYỆN THẬT 100% |

SỨC MẠNH KHIẾN MỘT NGƯỜI TRỞ NÊN THÀNH CÔNG: KỶ LUẬT BẢN THÂN

Kỷ luật bản thân chính là khả năng biết kiểm soát bản thân về lời nói, hành động, tính cách và đảm bảo hành động nhất quán với mục tiêu lâu dài. Nó là sự khước từ cảm giác thỏa mãn vui vẻ, cám dỗ tức thì và gác lại những việc nuông chiều bản thân.
Kỷ luật bản thân là thứ mà bạn phải có để cưỡng lại những cám dỗ, những viện cớ. Không có kỷ luật bản thân bạn sẽ không thành công bền vững. Kỷ luật bản thân chính là vạn sự khởi đầu nan. Lúc đầu bạn sẽ thấy cực khổ khó khăn nhưng sau khi rèn luyện thành thói quen bạn sẽ bắt bản thân làm những việc cần làm và không bao giờ bỏ cuộc trong mọi tình huống.
Ông Elbert Hubbard đã nói: “Kỷ luật bản thân là khả năng làm những việc ta cần làm vào những lúc cần làm, cho dù ta có thích hay không”. Kỷ luật bản thân chính là bí quyết giúp bạn vượt trội hơn người khác là chiếc chìa khóa đưa bạn đến thành công và nếu không có nó thì những nguyên tắc còn lại sẽ không phát huy tác dụng.
Thiếu kỷ luật bản thân chính là nguyên nhân khiến bạn thất bại, chán nản, kém cỏi và sống không mục đích, không hạnh phúc. Những người thiếu kỷ luật thường lựa chọn con đường ít chông gai để đi. Nghĩa là họ lựa chọn cách thức dễ dàng trong mọi tình huống, tìm kiếm những kế hoạch làm giàu hoặc cách kiếm tiền dễ dàng nhanh chóng mà không nghĩ đến hậu quả. Hơn nữa người thiếu kỷ luật còn thích lựa chọn những yếu tố có lợi là những gì nhanh nhất dễ nhất để đạt được thứ mình mong muốn ngay lập tức. Hầu hết mọi người đều có xu hướng lựa chọn những việc có lợi dễ dàng và vui vẻ thay vì chọn những việc cần thiết để giúp ta đạt được thành công.
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC GIÚP BẠN XÂY DỰNG TÍNH KỶ LUẬT BẢN THÂN
1) Nguyên tắc đầu tiên hãy cuốn gói khỏi đảo một ngày nào đó. Hằng ngày chúng ta có rất nhiều việc muốn làm nhưng lại hay có suy nghĩ để đó rồi lúc nào đó sẽ làm thay vì bắt tay vào hành động ngay. Chính vì chúng ta cứ nuôi dưỡng trong suy nghĩ của mình một ngày nào đó sẽ làm cái gì đó và bị những thứ vui vẻ nhất thời làm cho quên lãng. Như vậy, Để kỷ luật bản thân chúng ta chỉ có thể nhắc nhở mình làm hoặc không làm ngay thời điểm đó không được việc cớ, lí do này nọ. Hãy nhắc bản thân rằng nếu đó là điều sẽ xảy ra thì tôi phải là người làm nó xảy ra.
2) Nguyên tắc thứ 2: là hãy nhìn xa trông rộng nghĩa là suy xét xem mình muốn trở thành một người như thế nào và đạt được mục tiêu gì trong đời, sau đó xác định những việc cần phải làm hoặc không làm để đạt được mục tiêu tương lai mong muốn. Bản thân phải biết hy sinh những thứ trước mắt, việc lớn lẫn việc nhỏ để đảm bảo đạt được kết quả tốt đẹp về sau. Dành hàng giờ, thậm chí hàng năm để tìm hiểu, chuẩn bị và rèn luyện mài giũa những kỹ năng giúp bản thân trở nên giá trị hơn. Hãy nhìn vào tấm gương của những người đã thành công trên thế giới, thành tựu mà họ đạt được không phải trong bất ngờ thoáng chốc mà vào lúc mọi người đang say giấc họ phấn đấu suốt đêm thâu.
3) Nguyên tắc số 3: là biết bỏ qua những lợi ích ngắn hạn để hướng đến những lợi ích dài hạn. Sự khác biệt giữa người thành công và kẻ thất bại đó là người thành công biết rằng dù đó là việc không thích làm nhưng họ sẵn sàng chấp nhận trả 1 cái giá với mong muốn tận hưởng những thành công và phần thưởng to lớn trong tương lai. Người thành công chọn kết quả tốt đẹp là những kết quả tích cực về lâu về dài mang lại, còn kẻ thất bại họ chọn cách thức êm đẹp, niềm vui cá nhân và sự thỏa mãn tức thời.
4) Nguyên tắc số 4: đó là ăn món chính rồi mới đến món tráng miệng. Vì sao lại nói kỷ luật bản thân chính là ăn món chính xong mới đến món tráng miệng. Bởi vì khi chúng ta ăn những món chính là những món cần thiết đối với cơ thể rồi mới đến ăn những món tráng miệng hoặc là để bổ sung dinh dưỡng hoặc là để giải trí.
Nhưng nếu chúng ta chọn ăn món tráng miệng trước chúng ta sẽ no và cảm thấy không còn muốn ăn món chính nữa, hơn nữa chất dinh dưỡng có trong món tráng miệng sao có thể so với món chính cần thiết cho cơ thể.
5) Nguyên tắc cuối cùng để xây dựng tính kỷ luật bản thân đó là quyết định chắc chắn về việc cư xử như thế nào trong 1 hoạt động cụ thể. Nghĩa là khi bạn đã xác định những hành động của mình thì phải quyết tâm thực hiện đến cùng, không cho phép bản thân có ngoại lệ nào xảy ra cho đến khi thói quen hành động được hình thành bền vững. Mỗi lần bạn sai xót hay nuông chiều bản thân hãy nhắc mình nhanh chóng quay lại quyết tâm rèn luyện để không còn vô kỷ luật.
Chính vì có sức mạnh to lớn và là chiếc chìa khóa nắm giữ thành công của mỗi người. Cho nên hãy quyết tâm rèn luyện kỷ luật bản thân, làm việc dù muốn hay không để xây dựng một thói quen vững chắc, ông Geothe đã từng nói: “Mọi chuyện đều gian nan trước khi nó trở nên dễ dàng”. Con người có thể học bất kì, học bất cứ thứ gì và rèn luyện kỷ luật bản thân để trở thành những gì bản thân mong muốn. Lối sống kỷ luật sẽ mang lại phần thưởng vô cùng to lớn. Càng thực hành tính tự chủ và tự kiểm soát thì bạn sẽ càng yêu quí và trân trọng bản thân mình. Càng sống có kỷ luật bạn càng được mọi người tôn trọng và tự hào về chính mình. Từ đó bản thân sẽ luôn hướng đến những điều tích cực, bạn sẽ thấy mình mạnh mẽ và hạnh phúc hơn.

3 Quy Luật Vũ Trụ Nào Đã Quyết Định Đến 99% Sự Thành Công Của Bạn?

Cua Nhện Khổng Lồ, Cua Đá, Tu Hài, Tôm Hùm Đỏ - Khoa Pug Được Thảo Đãi Toàn Seafood Lạ Xịn Nhất Cali

Phú và HỎA TINH - LINH TINH

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
Những câu phú cổ nhân về Hỏa Linh còn thấy:
- Vũ Khúc Dương Đà kiêm hỏa tú, táng mệnh nhân tài
(Mệnh hoặc vận hạn có Vũ Khúc Kình Đà Hỏa tinh vì tiền mà tang mạng)
- Hỏa Linh thủ xung nữ dâm dục
(Hỏa Linh đóng Mệnh cung hoặc xung chiếu đàn bà đa dâm)
- Thất Sát LinhTinh trận vong yểu triết
(Thất Sát gặp LinhTinh số không thọ, thường hung tử)
- Linh Tinh Phá Quân bôn ba lao bác tài tinh khuynh
(Linh Tinh Phá Quân hãm cuộc đời long đong vất vả và tiền bạc phá bại)
- Linh Hỏa Dương Đà thủ Mệnh yêu đã bối khúc chi nhân
(Tại Mệnh hội tụ Kình Đà Linh Hỏa dễ bị tật như còng lưng)
- Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa Linh ở Mệnh nơi miếu địa công danh hiển hách)
- Linh Tinh toạ Mệnh nhập miếu vũ chức cư đa
(Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà)
- Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà
(Vận hạn thấy Linh Tinh hãm gặp Đà La Vũ Khúc hãm hay Văn Xương có thể chết)
- Hỏa Linh dũ Phá đương Thân, bại điền tài ư tổ nghiệp
(Hỏa Linh đứng với Phá Quân ở Thân không phải cung Thân thường phá điền tài của tổ nghiệp)
- Linh Hỏa miếu vi nhân đại dởm
(Linh Hỏa thủ Mệnh miếu địa là người can trường to gan)
- Hỏa Linh Dương Đà vi tứ sát đơn phùng Cơ nhi hữu duyên
(Tứ Sát Hỏa Linh Dương Đà một trong bốn sát ấy gặp Thiên Cơ là người có duyên).
- Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác tọa, ngộ Kiếp Không Thiên Sứ họa trùng trùng
(Hỏa Linh ưa gây họa gặp thêm Kiếp Không ở chỗ Thiên Sứ họa còn gấp bội)
- Linh phùng Sứ, Mã hội Dương Đà hữu tật tứ chi
(Cung Tật ách nơi sao Thiên Sứ đóng lại thấy cả Dương Đà chân tay có tật)
- Hỏa Linh hãm ư tử tức đáo lão vô nhị khốc
(Hỏa Linh hãm vào cung tử tức, hiếm con hoặc lúc già xa con)
- Linh Hỏa Hình Tang tối hiềm tử tức, hạnh ngộ Nhật Nguyệt tịnh minh lão lai tất hữu
(Linh Hỏa Hình Tang ở cung con, nếu như có Nhật Nguyệt song hữu thì khi về già cũng có người nối dõi)
- Hỏa Linh nhập Mệnh miếu, kiến chư cát, lập vũ công
(Hỏa Tinh hay Linh Tinh miếu địa đóng mệnh gặp thêm các cát tinh lập đựơc võ công)
- Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa với Linh đồng cung ở đất miếu danh tiếng khắp nơi)
- Hỏa Linh hãm hội Dương Đà bảo cưỡng tai thâm.
(Hỏa Linh ở đất hãm gặp Kình Đà thì lúc nhỏ lắm bệnh tật)
- Nữ Mệnh Hỏa Tinh tâm độc, nội lang, khắc phu khắc tử
(Đàn bà Hỏa Tinh thủ mệnh giỏi tháo vát nhưng tâm độc và dữ dằn khắc chồng khắc con)
- Đà La Hỏa Linh đồng cung giới dịch chi tật
(Mệnh hay Tật Ách có Đà La Hỏa Linh dễ mắc chứng phong ngứa, sưng gan)
- "Hỏa Linh ngộ hãm Thiên Cơ
Hẳn trong Mệnh ấy có tà chứ không"
(Hỏa Linh hãm gặp Thiên Cơ hãm, người thật khùng như bị ma làm)
- "Hỏa Linh Trì Mộc sáng soi
Lánh mình lửa cháy, nước sôi chớ gần"
- "Hỏa Linh ngộ Mã oán gia
Đề phòng hỏa hoạn mới là khỏi tai"
- "Linh Tinh Việt Hỏa đoài biên
Thạch trung hương hỏa thất kiềm sinh tai"
(Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Việt ở Dậu dễ bị tai họa về nhà cửa)
- "Kiếp Không da ắt đen hoàn
Hỏa Linh mặt khó sầu đăm đêm ngày"
(Mệnh Hỏa Linh mặt mày ít tươi tỉnh, thường xấc sược, giận dữ)
- "Đất tứ mộ Linh Tinh Tham Vũ
Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương"
- "Tuất Thìn Xương Khúc Đà Linh
Sát gia Mệnh hạn gieo mình trầm vong"
- "Kình Dương Kị Hỏa một bài
Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh"
- "Dương Linh toạ thủ Mệnh ai
Lại gặp Bạch Hổ hoạ tai đao hình"
- "Linh phùng Sát Phá hạn hành
Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung"
- "Linh Tinh hà tiện bao nhiêu
Phá Quân kia lại tiêu liều tiêu vung "
(Linh Tinh ở cung Phu thê có vợ hay chồng hà tiện)
- "Kiếp Không Linh Hỏa xấu xa
Sinh con lại gặp những lại gặp những tà ác tinh"
(Kiếp Không Linh Hỏa vào tử tức hiếm con, con bất hiếu, bất mục)
- "Bóng tà vẫn kém hào con
Bởi chưng Linh Hỏa Thái Âm hãm nhàn"
- "Hỏa Linh Dương Nhẫn lâm vào
Có sinh con cũng liệt vào tật thương"
- "Thiên Hình giữ của tốt sao
Linh Tinh hà tiện nên giàu đáng khen"
(Linh Tinh đây ở cung Tài Bạch)
- "Thiên Lương ngộ Hỏa chớ lầm
Hại người tổn vật mấy lần họa sinh."

TỬ VI BIỆT CÁCH PHÚ

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
30. Đa Sát, bại, dâm phát sinh đại họa
Sát tinh hoặc phá hoại hoặc cuốn hút người ta vào đường phá hoại . Bại tinh gây ra bất hạnh . Dâm tinh, tức các cách đào hoa thiếu đứng đắn, gây sự sa ngã . Tham Liêm bản chất đã mang sẵn tính đào hoa gặp nhiều sao của các nhóm này tụ tập rất nguy hiểm, cần đề phòng tai họa hoặc trụy lạc .
31. Tham Linh thành tựu, Tham Hổ tai ương
Hổ là một bại tinh bản tính quyết liệt, nên Tham Lang hãm địa thiếu uy lực gặp Hổ cùng cung khó lòng tránh khỏi tai nạn, miếu vượng cũng phiền toái . Lý tương tự như trường hợp Liêm Trinh .
Chú ý: Có Thanh Long hội họp thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ" . Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố thành công .
Tham Lang là một trong bộ ba Sát Phá Tham tất phải có sát tinh phù hợp . Lục sát có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp . Ta đã biết Phá Quân hợp Không Kiếp, Thất Sát hợp Kình Đà; suy ra Tham Lang hợp Hỏa Linh .
Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh, ví như ngọn lửa âm thầm, giúp Tham Lang thuộc mộc được nung nóng, thành tựu nhưng không phải là đột phát
32. Tham Hỏa anh hùng, Tham Xương nhiễu sự
Hỏa Tinh thuộc dương, ví như ngọn lửa lớn khiến Tham Lang thuộc mộc cháy bùng, nên Tham Hỏa là cách anh hùng, ứng với sự thành công đột phát .
Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, mang tính đào hoa nhưng đồng thời thuộc kim khắc hành mộc của Tham . Tham Lang mang tính đào hoa gặp Xương ví như cảnh "bỏ thì thương vương thì tội" chẳng ra gì, mập mờ rất phiền toái . Tham Xương cư Mệnh do đó là kẻ hay gây rắc rối cho đời . Tệ nhất là có đủ bộ Xương Khúc hội họp; phú có câu "Tham Lang Xương Khúc chính sự phiền hà" .
Chú ý : Nếu có nhiều cát tinh như Tả Hữu Khôi Việt Lộc Tồn tam Hóa , hoặc sao phù tá đúng bộ là Linh Hỏa thì giải được, không kể là xấu nữa .
33. Âm Dương vạn sự Xương Khúc Kiếp Không
Muốn luận tốt xấu cho cặp đế tinh Âm Dương cần nhất là xét bốn sao Xương Khúc và Không Kiếp . Âm Dương hội họp với Xương Khúc là đắc cách dễ phát triển tiềm năng , với Không Kiếp là phá cách, nhẹ sinh ra cảnh đầu voi đuôi chuột, nặng thì nhiều tai họa .
34. Hỉ ngộ Tam Minh, ố hiềm Tam Ám
Âm Dương tượng trưng ánh sáng của mặt trăng mặt trời nên gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ (tượng vẻ tươi sáng của một cô gái xuân thì) rất đẹp đẽ . Trái lại gặp bộ tam ám Riêu Đà Kỵ (tượng ba hoàn cảnh u ám) thì giảm uy lực . Ngoại lệ là kỳ cách Âm Dương Sửu Mùi tiếp theo đây .
35. Sửu Mùi ảm đạm Nhật Nguyệt vô quang
Sửu Mùi Nhật Nguyệt cùng cung ví như mặt trời mặt trăng cùng dành ánh sáng, là cảnh âm dương hỗn độn, tranh tối tranh sáng, nói chung là phá cách . Vì Âm Dương cùng là đế tinh, cư mệnh thích làm đàn anh thiên hạ nhưng lại không chịu hoặc không biết lo lắng cho thuộc hạ, gây ra những cảnh đầu voi đuôi chuột .
36. Gia Kỵ Triệt Tuần phả vi đại cát
Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ cách tốt đẹp . Địa Không cư ở đây cũng tương tự .
Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế tinh có thể cộng tác với nhau . Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ .
Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong .
37. Âm Dương hãm đắc kỳ cách vinh xương
Thái Âm cực xấu ở Thìn Ngọ (khí dương thịnh lại là cung dương), Thái Dương cực xấu ở Hợi (khí âm thịnh lại là cung âm), nhưng là đế tinh nên có tiềm năng mạnh mẽ . Do đó nếu đắc kỳ cách lại thành tựu hết sức to lớn .
38. Nhật phát văn chương, Nguyệt thăng vũ chức
Thái Dương vốn thuộc dương khi lạc hãm đắc kỳ cách theo luật "cùng tắc biến" lại nhuốm tính âm nên dễ phát về văn chương . Cùng lý Thái Âm vốn thuộc âm, lạc hãm đắc kỳ cách lại nhuốm tính dương nên dễ phát về võ nghiệp .
Kỳ cách quan trọng nhất là Âm Dương hóa Lộc hoặc hóa Quyền, thêm Xương Khúc phù tá . (Tưởng Giới Thạch tung hoành ở lục địa Trung Hoa, bị thua chạy ra Đài Loan rồi biến Đài Loan thành một cường quốc có cách Thái Âm hãm địa cư Thìn hóa Lộc, được thêm Khoa Quyền chiếu, lại có Khúc Xương phù tá) .
39. Nhật Lương Xương Lộc Quyền Lực hạch tâm
Thiên Lương thuộc quái Khôn (âm) lại vĩnh viễn tam hợp với Thái Âm (âm) , được hội họp với Thái Dương (dương) thành cảnh âm dương quân bình nên rất đẹp đẽ . Nhật vượng ở Mão thành cách Nhật Lương cùng cung, được Nguyệt miếu ở Hợi tam hợp, nếu hội họp có thêm sao phù tá lý tưởng của Thái Dương là Văn Xương và sao đại biểu may mắn là hóa Lộc hoặc Lộc Tồn là lý tưởng . Nhật Nguyệt là hai đế tinh , thêm Lương là bầy tôi lương đống, cung mệnh được cách này dễ trở thành nhân vật có quyền lực . Nhật ở Dậu hãm địa nên thành tựu kém hơn nhưng vẫn là cách tốt đẹp . Đặc biệt nếu Nhật hoặc Lương hóa Lộc hoặc hóa Quyền thì theo lý "cùng tắc biến" lại thành kỳ cách, tốt hơn cả Nhật Lương cư Mão .
Lương cư Tý Ngọ cũng đắc cả hai sao Nhật Nguyệt, nhưng không được tọa cùng đế vị nên kém hơn Nhật Lương Mão Dậu, ứng với quyền lực ở vị trí thấp hơn, cư mệnh đắc phụ tinh tốt đẹp có thể là nhân sĩ địa phương hoặc làm thầy giáo (số vạn thế sư biểu Khổng Phu Tử có Thiên Lương cư Tý) .

Cung QUAN LỘC phần 2

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
A. TỬ VI Ở CUNG QUAN LỘC:
1. Tại Ngọ: nếu có Quần Thần khánh hội, thêm Tả Phù hoặc Tả Phù chiếu và Tam Hóa, làm nổi quốc trưởng, thủ tướng hoặc làm trưởng nhiệm sở, được giàu sang vinh hiển suốt đời
2. Tại Tý: trung bình, nếu hội đủ Quần Thần khánh hội, thường là các bậc hào trưởng ở địa phương, các bậc phú ông ở thôn quê, chủ nông trại, được sung sướng suốt đời
3. Tại Dần, Thân: cùng Thiên Phủ rất tốt, nếu có tứ Linh (Long Mã Hổ Phượng, Tướng Ấn) thường là các nhà kỹ nghệ, thương mại lớn hay hiển đạt về võ nghệ, được vinh hiển suốt đời, rất tài ba, tháo vát
4. Tại Tỵ, Hợi: cùng Thất Sát, thường tay trắng làm giàu, rất tích cực, mạnh mẽ nhưng ăn về hâu vận, tiền vận thường vất vả
5. Tại Mão, Dậu: cùng Tham, trung bình, nếu hiển đạt lớn, thì dễ gặp tai họa. Đi tu dễ thành chánh quả, làm nổi các bậc tôn quí của đạo giáo (tổng giám mục, tăng thống...)
6. Tại Sửu, Mùi: cùng Phá, thành công về võ nghiệp nhưng cũng dễ gặp tai họa và thăng giáng bất thường. Nếu có ác, sát hung tinh, thường bị thất bại, hay tù tội về hậu vận. Hoặc gặp tai hoạ về nghề nghiệp, binh hỏa, lây bệnh nan y...
7. Tại Thìn, Tuất: cùng Thiên Tướng, tài giỏi, thường tay trắng làm giàu. Nếu giàu trước rồi, nên chuyên về kỹ nghệ, khoa học hay thành công lớn về thương mại, kỹ nghệ, làm mạnh thì thành. Thế nhưng phải phá tán trước, sau mới thành
B. THIÊN PHỦ Ở CÙNG QUAN LỘC:
1. Tại Tỵ,Hợi: bình thường, phần nhiều được nhờ vợ hay chồng. Biết an phận thủ thường
2. Tại Mão, Dậu, Sửu, Mùi: đi buôn, ra ngoài thường phát đạt. Vất vả ban đầu. Sau 30 tuổi thì thành công. Hoặc làm các nghành liên quan đến giáo dục, y, dược, văn học, ấn loát hay điêu khắc. Nghiêng nhiều về võ cách (văn đá võ)
3. Tại Dần, Thân: xem Tử Vi
4. Tại Thìn, Tuất: đóng chung với Liêm, uy quyền tột bực, vì có Tử Vi cư Mệnh ở Ty, Ngọ, Rất giàu sang, có thể làm nổi các chức vụ tương đương với chủ tịch quốc hội hay bộ trưởng nội vụ, đại sứ vì đại diện cho Tử Vi trong chính quyền trung ương
5. Tại Tý, Ngọ: đóng chung với Vũ, liên hệ nhiều đến các nghề bí mật, uy quyền hiển hách, thường đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong bóng tối (Sao Đen) như các đại sứ lưu động, các chức vụ liên đoàn, đoàn thể, rất quí hiển. Cũng như giữ các ngân khỏan to lớn của chính phủ tổng giám đốc về kinh tài hay kế hoạch gia vĩ đại. Do cách Tử Vi, Thiên Tướng làm Thìn, Tuất là cách táo bạo anh hùng, dễ thành công với thời loạn. Nếu đi thầu sẽ thành công lớn
C.THÁI DƯƠNG Ở CUNG QUAN LỘC:
Nhật chủ công danh. Gặp Tam Hóa. Lộc Tồn là đại quí
1. Tại Ngọ: công danh sớm, có thể làm nổi nguyên thủ quốc gia. Dù không có cát tinh, cũng là người tài giỏi, thường đảm nhiệm các chức trưởng nhiệm sở, rất có uy quyền. Làm chức phó thì đoạt trưởng
2. Tại Tý: cần gặp Tam Hóa hay Tuần, Triệt, sẽ giống như tại Ngọ, nếu không thì kém. Phần nhiều là danh sĩ, bậc người mô phạm, tài giỏi, thành công trong các nhiệm vụ khó khăn. Vì đây là các Nhật Trầm Thủy Để, Loạn Thể Phùng Quân. Phải thời loạn hay việc khó khăn mới thành công. Thời bình hay việc dễ thì chỉ có hư vị và đạo đức. Nhưng phân nhiều chỉ ngắn hạn. Khi tới hạn Thủy, Thổ thì tàn (tức bộc phát bộc tàn). Gặp hạn tốt, nên làm nhanh rồi rút lui ngay. Nếu không sẽ thất bại hoặc tai họa nặng
3. Tại Sửu, Mùi: đóng chung với Nguyệt, công danh trắc trờ, có chí hướng khó thành. Về già có đôi chút hư danh. Nếu gặp Tuần hay Triệt án ngữ, thì ban đầu trắc trở nhưng sau thành công
4. Tại Mão: đóng chung với Lương, rất tốt, thường thành công về y học, giáo dục, văn học. Học giả mô phạm và đạo đức, nổi tiếng và có uy quyền
5. Tại Dậu: nếu gặp Tuần hay Triệt thì giống như Mão nhưng ban đầu thường vất vả. Thiếu Tuần Triệt thì công danh muộn, vất vả, làm nghề thầy hay công tư chức cỡ trung bình
6. Tại Dần: đóng chung với Cự, cũng giống như tại Mão nhưng chuyên về hình luật, ngoại giao, chính trị quốc hội hay nhà văn nhà báo bởi Cự Môn chuyên về nghị luận đanh thép
7. Tại Thân: cũng cần gặp Tuần hay Triệt, nếu không thì dễ mắc chuyện thị phi quẫn túng, công danh trắc trở thất thường
8. Tại Thìn: có công danh sớm nhưng thường bất mãn về nghề nghiệp, dễ bị nhiều người ghen ghét
9. Tại Tuất: kém, chỉ có hư danh nhưng cũng là người có tài và đạo đức, được nhiều người nể kính. Thường là văn sĩ, hay làm các công việc đặc biệt, khó khăn
10. Tại Hợi: nếu gặp nhiều trợ tinh thì là người có tài đặc biệt, đảm nhân các công tác khó khăn và thành công nhưng cũng ngắn hạn thôi. Nếu thiếu trợ tinh thì là người rất bất mãn với công việc nhưng cũng là người đạo đức, quân tử
11. Tại Tỵ: giống như tại Ngọ nhưng kém hơn một chút
D. THÁI ÂM Ở CUNG QUAN LỘC:
Nguyệt thường chủ về sự đi xa, nghành ngoại giao, văn chương, nghệ thuật. Xem va luận giống như Nhật nhưng cần chú ý các vị trí miếu, vượng, đắc, hãm địa của Nguyệt
Miếu địa: ở Hợi, Tý
Vượng địa: ở Thân, Dậu
Đắc địa: ở Tuất, Sửu, Mùi
Hãm địa: từ Dần đến Ngọ
E. THIÊN CƠ Ở CUNG QUAN LỘC:
1. Tại Tỵ, Ngọ,Mùi: tốt đẹp, xem các cách về Thiên Cơ ở phía trên. Thường có chức tước, hiển vinh
2. Tại Hợi, Tý, Sửu: kém, phải về hậu vận mới khá được. Sở dĩ Cơ là sao Mộc, mà gặp hai cung Hợi, Tý là Thủy, là cung Sinh, mà kém, là vì sao nay đóng sau Tử, mà Tử hãm địa, thì cũng theo cái đà ấy mà có một sự tương đối kém cỏi luôn. Và do Tử Vi đóng lạc vào cung Nô Bộc
3. Tại Thân: đồng cung với Nguyệt, dễ làm về các nghành y tế, ngoại giao, giáo dục, văn học, nghệ thuật
4. Tại Dần: kém tại Thân, phần nhiều về hậu vận mới thành đạt vì gặp trở ngại do âm dường phản bối
5. Tại Mão: cùng Cự, dễ chuyên về giáo dục, luật pháp, rất khôn ngoan xảo trá
6. Tại Dậu: kém tại Mão
7. Tại Thìn, Tuất: rất thận trong, thường hiển đạt về văn nghiệp, bởi là cách Cái Thế Văn chương, làm nghệ sĩ có tài, có tác phẩm nổi tiếng, hoặc đi buôn làm giàu nếu có Tam hóa hay Lộc Tồn chiếu..
F. THIÊN LƯƠNG Ở CUNG QUAN LỘC:
Thiên Lương là sao chuyên về nghề thuốc, các nghề văn hay mô phạm
1. Tại Tý, ngọ: làm thầy thuốc, nếu hợp cách có thể làm cấp chỉ huy lớn, vinh hiển trọn đời
2. Tại Mão, Dậu: xem Nhật
3. Tại Thìn, Tuất: xem Cơ
4. Tại Dần, Thân: rất tốt, thường làm nghề nghành y học, giáo dục nổi tiếng và quí hiển
5. Tại Sửu, Mùi: trung bình, nên đi xa lập nghiệp thì tốt
6. Tại Tỵ, Hợi: bôn tẩu, nên đi xa lập nghiệp thì tốt, bởi Mệnh có cách Nhật Nguyệt Tranh Huy
Hai sao này ban đầu lật đật, vất vả, sau mới thành, chỉ đi xa là hợp. Nên làm các nghành đại diện thương mại ở nước ngoài là hợp cách
G. THIÊN ĐỒNG Ở CUNG QUAN LỘC:
1. Tại Mão: rất anh hùng, làm về võ nghiệp thì thành công. Như đi thầu, làm các nghề như cảnh sát trưởng, luật sư, thẩm phán là đắc thế, vì có Mệnh là Cự chủ về nghị luận, tính toán
2. Tại Dậu: kém hơn tại Mão, dễ thay đổi công việc, công danh thường bất mãn, vì bản chất ở Mệnh gặp Cự hãm địa ở Tỵ
3. Tại Tý: đóng chung với Nguyệt, công danh tốt đẹp, nghiêng về đi xa, ngoại giao lý luận, bởi là cách Nguyệt Lãng Thiên Môn Tiến Tước Phong Hầu. Càng đi xa càng thành công
4. Tại Ngọ: giống như tại Tý nếu có Tuần, Triệt. Nếu không có Tuần, Triệt thì thường được nhờ vợ hay chồng, do buôn bán làm giàu. Bởi nằm trong cách Thiên Tử Hành Quân, có Cơ Lương ở Thìn, Tuất
5. Tại Dần, Thân: xem Lương
6. Tại Thìn, Tuất: đi xa thì thành công và thường thay đổi công việc
7. Tại Sửu, Mùi: đóng chung với Cự, công danh lật đật, thường bị đè nén khó chịu. Nhiều miệng tiếng thị phi trong công việc làm ăn
8. Tại Tỵ, Hợi: vất vả, luôn bất mãn, vì cung Nô là đường cung đối với bản thân, mà cung này có Phủ và Vũ là sao mạnh, át mất thế của Mệnh
H. CỰ MÔN Ơ CUNG QUAN LỘC:
1. Tại Tý: cách Thạch Trung An Ngọc rất tốt, làm về nghành luật pháp, văn hoá, y tế, giáo dục. Được giàu sang nổi tiếng
2. Tại Ngọ: kém hơn tại Tý, thường không bền, giàu sang như mây nổi, dễ mắc tội vạ, tiêu tan cơ nghiệp vì kiện cáo, vì gặp âm dương hãm địa và cách Liêm Tham Tỵ Hợi
3. Tại Hợi: trung bình, dễ được nhờ vợ hay chồng
4. Tại Tỵ: kém, thường làm các chức vụ tầm thường, bị chèn ép nặng nề, do cung Nô ở Ngọ rất mạnh. Cũng không được nhờ vợ hay chồng, vì Nhật hãm địa
5. Tại Thìn, Tuất: có tài, thường tự lực cánh sinh vươn lên trong khó khăn, bị vất vả lúc đầu, sau sẽ thành công, nhưng bị nhiều kẻ dèm pha, ghen ghét
6. Tại Mão, Dậu: xem Cơ
7. Tại Dần, Thân: xem Nhật
8. Tại Sửu, Mùi: xem Đồng
I. LIÊM TRINH Ở CUNG QUAN LỘC:
Liêm chủ trương quyền bính, nên rất độc tài nghiêm nghị. Chủ về lý luận, võ nghiệp và ty pháp
1. Tại Dần, Thân: làm về võ nghiệp rất có uy quyền. Đi với bộ Tứ Linh (Long Mã Hổ Phượng hay Hổ Cái Tướng An) có Khoa Quyền, làm nổi đại tướng. Thiếu Khoa Quyền thì có thể là nhà kỹ nghệ hay khoa học, hoặc làm về các nghành tư pháp, cảnh sát trưởng rất độc đáo, uy hùnh. Thường nghiêng về các sự đặc biệt khác đời. Có thể là nhà phát minh khoa học
2. Tại Thìn, Tuất: xem Phủ
3. Tại Tý, Ngọ: cùng Thiên Tướng, rất uy hùng, có thể làm nổi tổng tư lệnh nhưng cũng bộc phát bộc tàn. Ơ Tý tốt hơn ở Ngọ. Vì ở Tý thì Nhật đắc địa dễ giàu có và bền. Làm về các nghành kỹ thuật hay đi thầu rất thành công, nhưng chỉ nên ngắn hạn. Nếu kéo dài là thất bại
4. Tại Sửu, Mùi: cùng Thất Sát, thành công về quân sự, nhưng dễ tai nạn về hậu vận, cũng có thể đi thầu hay đi buôn, nhưng bộc phát bộc tàn
5. Tại Mão, Dậu: cùng Phá, trước gặp may mắn nhưng sau sẽ bất mãn nặng nề. Vì Liêm Trinh chủ ở tiền vận. Rất phá tán, chỉ nên lợi dụng thời cơ, làm ngắn hạn và từ mùa xuân đến mùa hạ thì thành công. Sau đó là thất bại
6. Tại Tỵ, Hợi: rất ác, thường nghiêng về nghành tư pháp, giam cầm, bắt bớ, đi săn, kỹ thuật, hoá chất là hợp. Nhưng sinh ư nghề tử ư nghệ, có thể mắc bệnh nan y do nghề nghiệp mà ra
J. THẤT SÁT Ở CUNG QUAN LỘC:
Chủ võ biền, quân sự, công kỹ nghệ
1. Tại Dần, Thân: là cách Thất Sát Triều đẩu, làm bạo và thành công. Rất uy hùng, thường được toạ trần biên thuỳ, một mình trấn ngự biên cương
2. Tại Tý, Ngọ: công danh thất thường nhưng rất uy hùng, thường do thời có đưa lại, bộc phát bộc tàn, nên buôn từng chuyến, theo thời vận mà bốc nhưng phải rút nhanh không nên nấn ná vớt thêm thì thất bại
3. Tại Thìn, Tuất: làm về võ nghiệp hay luật pháp nhưng bất mãn, thường dễ gặp tại nạn binh đao
4. Tại Sửu, Mùi: xem Liêm
5. Tại Tỵ, Hợi: xem Tử
6. Tại Mão, Dậu: đóng chung với cung Vũ Khúc, thường hiển đạt về võ nghiệp, có thể làm nổi các chức quân khu trưởng, trọng nhậm một cõi, nhưng cũng thăng giáng thất thường, nay đây mai đó.
K. THAM LANG Ở CUNG QUAN LỘC:
1. Tại Thìn, Tuất: làm về võ nghiệp, thường nổi bật vì can đảm và tào bạo. Được giàu sang nếu buôn bán, cũng dễ thành công. Nên làm về nghề đi thầu, hay đại công tác
2. Tại Sửu, Mùi: đóng chung cùng Vũ. Dễ giàu có nhờ buôn bán hay kinh doanh. Chuyên về kinh tài, kỹ nghệ hay thương mại
3. Tại Dần, Thân: trung bình, công việc dễ trắc trở, đi làm đủ ăn, không giàu có được, phải phá cách đi buôn mới tốt, vì thuộc vòng sao Tử tướng lâm Thìn, Tuất
4. Tại Tỵ, Hợi: xem Liêm
5. Tại Mão, Dậu: Xem Tử
6. Tại Tý, Ngọ: kém, làm việc dễ tham ô, cần phải có sao Tuần thì tốt
L. PHÁ QUÂN Ở CUNG QUAN LỘC:
1. Tại Tý, ngọ: rất oanh liệt, ở Ngọ tốt hơn ở Tý, thường làm nổi việc khó khăn và thành công trong thời loạn. Nhưng cũng bộc phát bộc tàn. Ăn về hậu vận
2. Tại Thìn, Tuất: rất ích kỷ, thường lấn át người trên, dám liều và thành công vào phút chót. Thường vất vả vào ban đầu và từ đó làm giàu (bạch ốc phát công khanh).
3. Tại Sửu, Mùi: xem Tử
4. Tại Mão, Dậu: xem Liêm
5. Tại tỵ, Hợi: đóng chung cùng Vũ, thường làm việc thương mại hay kỹ nghệ. Công danh bất mãn, phải nghiêng về hai nghành trên mới thành công
6. Tại Dần, Thân: tại Dần tốt hơn tại Thân, đi buôn bán thì giàu, còn đi làm được bao nhiêu hao tán hết.
M. VŨ KHÚC Ở CUNG QUAN LỘC.
Vũ Khúc là sao võ, vừa chủ về uy quyền, vừa chủ về tài chánh, nên là sao rất mạnh và tốt.
1. Tại Thìn, Tuất: là cách Phượng Hoàng Dực Vũ, nếu thêm Văn Khúc thì văn võ kiêm toàn, hiển đạt về võ nghiệp, làm nổi tổng tư lệnh quân đội.
2. Tại Tý, Ngọ: xem Phủ.
3. Tại Dần, Thân: đóng cùng Thiên Tướng, rất dễ làm giàu, công danh hiển đạt.
4. Tại Sửu, Mùi: xem Tham.
5. Tại Mão, Dậu: xem Thất Sát.
6. Tại Tỵ, Hợi: xem Phá.
N. THIÊN TƯỚNG Ở CUNG QUAN LỘC:
1. Tại Sửu, Mùi: rất tốt, tài kiêm văn võ, có uy quyền, rất được kính nể.
2. Tại Tỵ, Hợi: như tại Sửu, Mùi. Vì căn bản Mệnh có Phủ chủ động nên đi buôn thì giàu.
3. Tại Mão, Dậu: kém hơn số 1 và 2 ở trên, vì gặp Liêm, Phá ở đối cung, dễ bị thăng giáng bất thường.
4. Tại Thìn, Tuất: xem Tử
5. Tại Tý, Ngọ: xem Liêm
6. Tại Dần, Thân: xem Vũ

CÂU CHUYỆN VỀ TỬ VI

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
Nghề coi số bạc bẽo
Xem Tử Vi, cũng còn có nhiều tay giải, trong đó có một số là những nhà học giả. Tôi biết nhiều nhà học giả cừ khôi rất sành Tử Vi, nhưng các ông này dấu tài thật kỹ. Chỉ khi nào họ biết mình đứng đắn, họ mới nói chuyện với mình về Tử Vi thôi. Các ông này không thích cho ai biết tài, lại cũng không thích coi cho ai. Họ nghiên cứu và vui trong công việc nghiên cứu của họ, coi cho con cái, bạn bè chí thân mà thôi, vì coi số là một cái việc làm … bạc bão lắm.
Nói tốt thì người ta thích, nhưng không tốt mà bảo tốt sao được. Lợi lộc gì mà đi nói láo! Nhưng nói thẳng thì đâu nỡ.
Sao Thai mà ngộ Đào Hoa
Một người kia có người giới thiệu, đến nhà một người bạn tôi, mượn coi số Tử Vi đã làm sẵn. Bạn tôi coi một hồi, trao tôi xem và nói.
- Anh đoán dùm tôi đi! Tôi coi không nổi.
Tôi xem qua chẳng thấy gì là khó. Mới hỏ:
- Khó khổ nào?
- Ậy, cứ coi đi, rồi tự tiện mà giải đoán dùm.
Tôi bảo:
- Thì anh đoán đi. Bà chị đây cậy anh mà. Tôi thì đoán ẩu, vì học lăng nhăng.
Bạn tôi nhấp nháy tôi, bảo:
- Thôi anh cứ đoán đi
Tôi hiểu ý, bèn chỉ vào sao Thai và Đào Hoa ở tại mạng, cười hỏi:
- Đoán sao cha nội?
- Thì cứ nói? Có sao? (nhưng hỏi vậy mà anh ta nháy mắt láy tôi một cái).
Tôi ngụ ý bèn nói:
- Có cái này không mấy tốt, bà chị tha lỗi thì mới dám nói:
- Dạ, không sao cả ạ,
- Bà chị coi chừng, đàn ông nó thấy bà chị nó hay để ý lắm. Phải coi chừng vì số đào hoa mà.
- Nghĩa là gì sao gọi là số đào hoa?
- Nghĩa là ai thấy cũng thương. Bời vậy mà khổ, và coi chừng hay mang tiếng. Người ta thấy bà chị vui vẻ, tưởng bà chị không đứng đắn nên hay chêu ghẹo và nói xấu.
- Đúng quá í, họ nói xấu tôi, tôi cứ bị mang tiếng mãi. Chứ tôi đứng đắn lắm.
- Nhưng bà chị nhẹ dạ lắm. Hay tin là vì thật thà, tưởng ai cũng thật như mình, mà thiên hạ thì quỷ quyệt lắm
Tùy cái “Đào Hoa mà ngộ sao Thai”
Bà ấy nghe liền phân bua với bạn tôi:
- Ông này là ai mà đoán hay hết sức. Đúng phong phóc.
Rồi tới chừng bà ra về, dĩ nhiên bà hết sức cảm ơn.
Bạn tôi nói
- Tôi ghét không thèm nói. Muốn mắng con mẹ vài tiếng cho bõ ghét. Ngại mết lòng cũng chỗ quen lớn.
Tôi cãi
- Anh nói sai, bà ấy có gì mà đáng ghét?
- Con mẹ ấy dâm dật số dách. Còn gì nữa! Đào Hoa mà ngộ sao Thai, chồng vừa đi khỏi rước trai vô nhà!
- Không anh quên rằng bà này đâu đến nỗi. Là vì còn có sao Lộc Tồn thủ mạng, thì đã biến thể sao Đào Hoa thành vị sao đa cảm, đa tình thôi, chứ đâu phải còn dâm đãng? Anh lầm rồi.
Sao Lộc Tồn trong Tử Vi lạ lùng lắm, nó có 2 tánh chất: Phúc tinh hay Lộc tinh. Nó lại cũng có công dụng là sao thanh cao gọi là “chân nhân chi tú” và nó biến tất cả những tính cách dâm đãng của các sao Đào Hoa và Hồng Loan. Tôi từng xem Tử Vi cho một người đàn bà đứng đắn lắm (một vị nữ giáo sư) vậy mà lá số tử vi có Đào Hoa và sao Thai thủ mạng lại có thêm Lộc Tồn
Anh bạn bảo:
- Lạ nhỉ để tôi kiếm lại
Mệnh Vô chính diệu: tại sao không tu?
Có nhiều người quen thân hỏi tôi về việc cãi số. Tôi đã nói về vụ đó nhiều, nhưng vẫn chưa hết hẳn. Đúng thật là cái sự xem lá số để cãi số quý hơn là để cam phận một cách thụ động để cần phú quý mà thôi.
Việc ấy rất đúng. Và về việc này, tôi có sẵn một tập hồ sơ về các vị tu sĩ. Các tu sĩ là nhhững con người dám đổi số, tin rằng “Có Trời mà cũng có Ta”, bằng không họ không bao giờ dám nghĩ đến việc tu. Vì “tu’ là gì, nếu không phải là “sửa đổi”, bồi cái hay, bỏ cái dở.
Có bạn yêu cầu tôi viết thường thường nhhững câu chuyện vui vui hơn là đi sâu các vấn đề Tử Vi mà chỉ có những bạn hiểu sâu về Tử Vi thì mới hiểu nổi. tôi cũng thông cảm như thế, nhưng để dung hòa câu chuyện vừa vui mà không kém phần nghiêm trang hơn, tôi xin kể một vị tu sĩ leo rào.
Có một tu sĩ hỏi tôi:
- Từ nhỏ đến lớn tôi thích đạo đức, nhưng mạng Vô Chính Diệu có đi tu được không?
Mạng Vô Chính Diệu tức là cung mạng không có chính tinh. Khoa đóan Tử Vi thông thường cho rằng mạng Vô chính diệu là con người hay thay đổi: nếu thêm Tam Không, Nhị Không (tức các sao Tuần Không, Địa Không, Triệt Không) thì phú quý khả kỳ (phú quý một thời mà thôi)
Nếu không có Nhị Không, Tam Không, cũng phải có nhiều cặp sao tốt.
Tôi nói:
- Mạng Vô chính diệu sao lại không tu? Dù là ông bạn đắc Nhị Không hay Tam Không, rồi thì phú quý, công danh chỉ nhhư phù vân. Đợi đến kinh nghiệm bản thân thì không còn thời giờ. Nhưng có điều này, Mạng ngộ Kình Dương lạc hãm, e rằng ông bạn cứng đầu quá. Mà người có mạng Vô chính diệu, muốn đi tu hay làm gì cho thành công, phải có người dẫn đạo, anh cần quy y và phải tìm ông thầy nào thật phúc hậu dìu dắt mới đặng. Đó là việc khó cho anh, vì anh có tánh tự phụ thái quá.
- Làm sao tìm thầy?
- Cái đó khó. Cần phải tìm thầy, nhưng rồi phải đi xa thầy đó.
- Tôi không hiểu
Cần chú ý cái sự phú quý khả kỳ
Tôi mới nói:
- Số mạng Vô chính diệu thì phải làm con nuôi, dù là con nuôi tinh thần, nhưng rồi ông bạn phải tự tìm học Đạo mà không cần ai nữa, vì có sao Kình. Sao Kình ở đây rất hợp cho người đi tu mà không bị chướng ngại. Khó là chỗ đó. Xưa nay trong tay tôi đã nhận được bao nhiêu lá số Vô chính diệu mà đắc Nhị Không hay Tam Không. Họ khóai công danh lắm. Mà đã có công danh là có suy sụp. Tôi đã thấy người bạn là Tổng Trưởng, nhưng rồi hiện giờ bị chìm sâu hết sức, bởi cái hậu quả của con diều bay cao, thì khi bị đứt dây, nó rơi xuống những vũng bùn lầy.
Tôi lại tiếp:
- Ông đó từ chỗ thật cao rơi xuống, thân danh bị hoen ố cả. Nên bạn nào mà có thấy lá số Vô chính diệu, nên xa lo tránh cái cảnh “phú quý khả kỳ” của mình đi. Những người khôn ngoan bao giờ cũng nên tránh cái thứ phú quý tạm thời ấy… Không một ai khỏi lụy một đời, khi cái phú quý tạm thời ấy đến chỗ mình.
Khổ một nỗi phú quý đến với mấy người có cái số này, lại thường không phải vì tài hoa quán thế, mà là vì đột ngột bất ngờ mà đến, cho nên khó lòng từ chối.
Muốn tránh cái cảnh ấy, nên thụ lãnh cái chức phó, nghĩa là làm phụ tá mà thôi. Người ta đẩy mình lên ngôi cao chót vót chức vị nguyên thủ quốc gia, thì nên từ chối và nếu có khóai phú quý, hãy tạm làm viên “phó tướng” mãn đời thì sẽ bình yên.
Tôi có người bạn chí thân có cái số ấy. Suốt đời ông chỉ làm phó mà thôi. Một khi được quan trên yêu mến cất lên chức Trưởng ty… thì 2 tháng sau liền mất chức. Mà việc như thế trong đời ông đã xảy ra 5, 7 lần như vậy. Tôi đã có khuyên, nhưng ông ta không nghe. Nhưng cứ ông làm phó là ông ta ngồi hòai, ngồi thật lâu.
Hạn chết đói
Khi lớn tuổi, tôi có gặp một ông Song Hao đắc địa, nhưng không có cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, nhưng ông đó lại được cách Song Lộc. Một ông thầy bảo Song Lộc triều viên là giàu lắm. Nhưng ông đó đến 50 tuổi chả thấy gì cả.
Tôi đã nói với ông bạn đó là Đại Hao và Tiểu Hao ở Tý – Ngọ; Mão – Dậu là đác địa, nhưng gặp Song Lộc là xấu. Tuy vậy mà không nghèo khổ rách rưới đâu mà lo. Là vì Song Hao ở Mão Dậu thì của có bao nhiêu rồi cũng sẽ hết, mà là hết cái này thì lại sẽ có của khác vào. Ngòai ra người có Song Hao đắc địa là người xem tiền bạc như không có, tức là kẻ trọng nghĩa khinh tài, thích giúp đỡ bạn bè.
Thường thì Lộc rất ghét Hao. Hạn của Hao gặp Lộc không ăn thua gì. Sợ nhất khỏang về già, vào hạn Thiên Thương ngộ Hao. Gặp hạn đó thì phải có lúc đói ngang xương. Nếu may sao đó lại đóng vào cung Giải Ách, sợ đau và chết vì không ăn được, chứ không phải nghèo đến nỗi không có cơm ăn.
Một câu chuyện ngồi trên đống bạc mà chết đói
Tôi còn nhớ có một Ông Cậu có cái số này.
Đã lâu rồi, hồi tôi còn trẻ tuổi. Cậu tôi là tay cự phú. Của cải ông suốt đời làm sao ăn cho hết. Một khi kia, tôi đã nói thẳng sự thật về lá số của ông, thì ông cười to lên.
- Thằng này láo. Tao mà chết đói. Năm nay tao 55 tuổi rồi, của cải điền sản của tao ăn 3 đời cũng không hết.
Tất cả nhhững người xung quanh đều cho rằng ông nói đúng. Mợ tôi nói:
- Không phải nói phách, giấy bạc của tao đem ra chợ này, đốt 3 ngày cũng chưa tắt. Mày coi sai rồi.
Có một ông thầy đồ trong làng cũng phụ họa:
- Song Lộc triều viên mà. Cậu coi không đến chỗ tinh vi. Cần học kỹ lại.
Nhưng tôi quả quyết:
- Để xem! Tôi không nói cậu chết đói vì thiếu ăn mà chết đói vì không ăn được.
- Sao vậy?
- Không biết. Mà cũng gần tới rồi, số cậu không hơn 60 tuổi – cỡ 58 lo lần là vừa.
Cậu tôi đổi sắc. Là vì biết tôi miệng hay ăn mắm ăn muối hay nói ẩu mà nói thật, nói đúng. Mẹ tôi ngồi đó rầy tôi:
- Con ăn nói vô lễ, thôi nín đi.
Về sau mẹ tôi còn rầy:
- Dù có thật như vậy, mày cũng đừng nói. Huống chi việc u u minh minh, con đừng quả quyết. Hãy bỏ tánh hiếu thắng và tự phụ của mày đi.
Tôi nói:
- Con quả quyết là cậu sắp chết vì hạn đáo Thiên Thương lại gặp cả Song Hao. Để mẹ xem. Nhưng có điều không rõ, là lý do nào lại có thể đói mà chết.
Vậy mà sau quả thật Cậu tôi bị bao tử ung thư vào nhà thương, họ không cho ăn, chỉ tiêm thuốc bổ. Cậu tôi lúc gần chết cứ kêu: “Tao đói quá, cho tao a7n chút cũng được, chích đau quá”
Nói chuyện ác tinh
Có một ông bạn chỉ thắc mắc lo sợ các ác tinh. Có một lần tôi mới bảo:
- Đừng nên sợ ác tinh lắm, không có chúng thì làm ăn gì nổi Bầy ác tinh. Nếu hợp cách thì tốt lắm. Có bậc phi thường đều là được hung tinh (ác tinh) đắc cách cả.
Người bạn đó có hỏi thêm, và tôi đã trả lời:
- Nếu cả 6 cặp ác tinh đều đác địa, thì nên biết lá số đó là của người làm nên việc phi thường. Mạng, Thân tuy không gặp, nhưng gặp hạn Tiểu Hao hay Đại Hao gì cũng vậy, sẽ hay lắm. Ta không nghe nói “hung tinh đác địa, phát giả như lôi” đấy hay sao?
Tôi đã nêu lên một vài ví dụ, xin kể ra đây để cống hiến quý bạn:
- Sao Đà La xấu lắm, nhưng nếu nó ở cung Phúc Đức mà Phúc Đức lại ở cung Thân, và ở đây không có chính tinh, thì ta gọi đó là cách Đà La độc thủ, tức là đời mình sẽ lên cao bất thường, họanh phát kinh khủng.
- Sao Cô Thần – Quả Tú xấu lắm, nhưng ở cung Điền hay cung Tài, thì là sao giữ bền tiền của hay đáo để
- Sao Tang Môn xấu, nhưng nó là Thiên Môn, (cửa trời) ở vào cung Điền thì nhà cao cửa rộng. Nếu lại gặp cả sao Cự Môn (tức là cách Tang – Cự) cùng một chỗ thì gọi là Lương Môn, tức là ở lâu đài như dinh Gia Long hay dinh Độc Lập, nếu cung Quan tốt, còn không thì cũng ở lâu đài nguy nga.
- Sao Thái Tuế rất xấu, vậy mà gặp Văn Xương – Văn Khúc, hay Khoa Quyền thì văn chương lừng lẫy ấy, gọi là cái thế văn chương.
- Ai lại chả sợ Thiên Không, nhưng nếu Thiên Không mà gặp Hồng Loan thì mưu trí ai bằng.
Không có gì là thật xấu hay thật tốt, miễn là đúng vị, đúng cách thì hay.

KHÁM PHÁ TÍNH TÌNH PHỤ NỮ QUA TỬ VI

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.1/ Tham lang địa kiếp
Có thế nói đa số các nhà tử vi ko khen phụ nữ nào có 2 sao này hay 1 trong 2 sao tọa thủ tại mệnh thân (nhất là mệnh).

Câu phú “Trai bất nhân Phá quân thìn tuất, gái bạc tình Tham Sát dần thân” chỉ chê phụ nữ có Tham, Sát dần thân là bạc tình, nhưng tôi nghiệm thấy còn tệ hơn nữa vì người đó ngoài tính bạc tình còn có tâm địa ích kỉ, tham vọng vô bờ bến về mọi phương diện nhất là về tình và tiền (gặp ai mà ưa là say mê liền hoặc đang yêu mà thấy người đó hết tiền là bỏ luôn).

Về câu phú trên tôi thấy ứng nhiều với sao Tham Lang chứ ít đúng với sao Thất Sát nếu không có sao tăng cường. Thực tế khi mạng cư dần thân có Sát thì cung xung chiếu bao giờ cũng là Tử Phủ là 2 sao trung hậu, gây ảnh hưởng ko ít cho Thất sát, nhất là khi mạng ko có ngũ hành hợp sao này, hơn nữa chính sao Thất sát là sao chủ về khắc khổ, khắc khe, u buồn, ít tình cảm, thì khó thể quyết đoán là đương số bạc tình. Phải chăng là có những tính này nên không yêu đương đằm thắm được, chứ làm gì có lòng dâm tà.

Nhưng khi có Tham Lang thủ mạng, nhất là ở tí ngọ thì khó thể níu kéo cung xung chiếu để chế hóa mạnh mẽ sao này.
Có nhà tử vi đã ko lầm khi cho rằng Tham Lang còn tệ hơn Đào, Hồng, Riêu, Mộc vì Tham Lang vừa dâm vừa gian tà ích kỉ trong khi Đào, Hồng, Riêu, Mộc chỉ có đam mê về nhục dục chứ chưa hẳn thiếu tâm hồn cao thượng, vị tha. Nếu chẳng may có Tham Lang thủ mạng lại gặp đủ bộ sao lả lướt trên đây thì thực là quá sức dâm dật hoặc vô luân; những người phụ nữ đó không thể chấp nhận làm người bạn đời được. Riêng Tham Vũ và Liêm Tham thì ít bị ảnh hưởng của Tham Lang vì thuộc về cách khác

Còn sao Địa Kiếp tuy ko chủ về tình ái nhục dục nhưng có đặc tính mạnh mẽ về gian tà, thủ đoạn, tàn nhẫn, bần tiện, ác độc. Chỉ 1 sao này cũng đủ làm cho tâm hồn người phụ nữ xấu xa và cũng đủ làm hỏng gần hết các cách hay khác. Nếu xui có thêm Tham Lang thì người đó hết làm bạn được với ai. Nếu có Đào Hồng Binh Tướng hội chiếu thường hay bị hãm hiếp; hoặc làm gái điếm khi có thêm Riêu, Mộc, Cái, Hỏa, Linh và 1 vài cách bổ túc khác.

Tôi cho rằng thà có Địa Không lâm mệnh thân còn hơn có Địa Kiếp, vì Địa Không thường chủ về vất vả, thất bại, hôn nhân trắc trở chứ ít khi chủ về gian trá, ích kỉ mạnh mẽ như địa kiếp. Mặc dù có câu phú “Không kiếp lâm Tài Phúc chỉ hương sinh lai bần tiện” tôi cho rằng chỉ ứng với Kiếp. Riêng về Không Kiếp đắc địa Tị Hợi thì ko liên quan gì đến cách đoán trên vì cách này cũng là 1 cách tốt cho nam lẫn nữ, nhất là Âm Nam, Dương Nữ (tôi đã bàn kĩ về điểm này trong bài viết)
2/ Đào, Hồng, Riêu, Mộc, Cái
Sau sao Tham Lang tôi chê người phụ nữ nào có các sao này, dù họ có cả Tử Phủ, Khôi Việt, Quan Phúc chiếu mệnh chăng nữa. Thực tế các sao đó có năng lực rất mạnh về tình ái, nhục dục cho nên bộ sao đứng đắn khó làm mất hiệu lực của chúng, nhất là khi có cả Không Kiếp, Hỏa Linh, Phục, Tả Hữu thì thuộc về hạng gái làm tiền.

Chỉ có 2 sao Đào Riêu vẫn là loại gái lăng loàn, trắc nết, dễ cắm sừng vào đầu chồng, chẳng thế mà có câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa dắt trai vào”.

Hơn nữa, nguyên sao Đào Hoa hoặc Hồng Loan thủ mệnh cũng bát lợi cho người chồng vì 2 sao này chủ về 2 đời chồng hoặc ít khi sống gần chồng. Tôi ko cho 2 sao này nói về tình ái liên tục mà thực ra là “trăm mối tối nằm không”, như vậy có hay gì cho hạnh phúc vợ chồng. Đấy là chưa kể về vấn đề yểu tướng khi có Không Kiếp giao hội, vì có câu “Đào, Hồng hội Kiếp Không lâm thủ, sá bàn chi những lũ yểu vong”

3/ Vũ khúc, Cô quả, lộc tồn
Những sao này khi thủ mạng nữ chẳng bao giờ có nghĩa xấu xa, nhưng tôi vẫn ko cho là tốt vì các sao đó chủ về cô đơn, góa bụa, hoặc lạnh lùng, khắc khe, là những yếu tố ko lợi cho hạnh phúc lứa đôi. Nhưng bù lại, người đó có tay làm ra tiền và càng nhiều tiền càng dễ bị sống xa cách chồng. Cách này hay dở tùy thuộc cảm nghĩ hoặc í thích của người chọn vợ, vì có ông chỉ nghĩ đến tiền nên khi vợ làm ra nhiều tiền thì đương nhiên được coi là hay, nhưng có ông chỉ ưa sống gần vợ mà cứ phải nay đây mai đó hoặc phải chia ly xa cách vì hoàn cảnh sự nghiệp thì đương nhiên cách này thành xấu

4/ Phá quân, Đại Tiểu hao
1 phụ nữ không dâm tà độc địa ích kỉ, không lạnh lùng khắc khe cũng chưa đủ làm người vợ tốt: người đó còn cần có tính cẩn thận, tằn tiện, ngăn nắp nữa mới có thể thành người nội trợ giỏi, đảm đang. Như vậy phải tránh Phá quân hội Đại Tiểu hao (trừ khi Đại Tiểu hao cư Mão, Dậu) dù cho Phá quân đắc cách ở tí, ngọ vì các sao này chủ về bừa bãi, ngông cuồng, hoang phí, phóng khoáng ăn chơi, cờ bạc, nghiện ngập. Dù mình là tỉ phú cũng chẳng nên lựa người phụ nữ kiểu này, vì chẳng mấy chốc mà sự nghiệp tan tành vì bị phá của rất mạnh mẽ.

Trên đây là những điều tôi cho rằng tối kị với phụ nữ, vì thực ra còn nhiều cách xấu khác không tai hại lắm và cũng khó thể tránh được. Nhân vô thập toàn mà

Những cách tốt

1/ Tử Phủ dần thân
Cách này ít nhà tử vi dám chê và riêng tôi, tôi coi cách này hay nhất đối với phụ nữ. Mỗi khi coi lá số 1 người phụ nữ có cách này là tôi có thiện cảm và kính trọng liền, vì gần như chắc chắn người đó đoan trang, tiết hạnh và thông minh.

Nhất là khi có thêm Hóa Khoa đồng cung hoặc Khôi Việt giao hội thì thực hết chỗ chê. Riêng Hóa Khoa có điềm hay đặc biệt là vừa thông minh lại vừa nhân hậu từ trong lòng đến bề ngoài (như thế là nhân hậu thật sự chứ không phải đạo đức giả). Phải chăng vì thế mà theo cách bố cục các sao, Đào Hoa không bao giờ đồng cung Tử Phủ dần thân, vì đào hoa chủ về đa tình, lãng mạn lẳng lơ. Còn Hồng Loan tuy cũng có khi đồng cung (khi tuổi Sửu Mùi) nhưng không đáng ngại vì Hồng Loan thường chủ về 2 đời chồng hoặc trắc trở hôn nhân chứ ít khi có nghĩa đa tình như Đào Hoa, nhất là khi có Tử Phủ chế hóa nhiều

Có người thắc mắc sao không coi Tử vi cư ngọ là tốt nhất đối với người phụ nữ. Thật ra cách đó chỉ tốt về công danh uy quyền chứ không hẳn tiêu biểu cho nết hạnh phụ nữ. Chẳng thế mà cung Ngọ cũng là 1 trong 4 vị trí của đào hoa, và khi sao này cư Ngọ thì đương nhiên người phụ nữ đó coi tình ái như “pha” nghĩa là họ có thể trở thành bạc tình, dù có Tử Vi đóng ở đó nữa. và có khi chính vì có Tử Vi mà thành ngang tang trong vấn đề tình ái vì Tử vi cư ngọ được coi là “vua” trong các sao thì coi ai ra gì. Tuy nhiên khi có Tử vi mà không có đào hoa thì vẫn cho là tốt về tính tình nhưng nhất định có tính kiêu kì quá đáng, là 1 điều làm phái nam bực mình và thiệt thòi

2/ Tử Sát tị hợi
Cách “Tử Sát đồng lâm tị hợi nhất triều phú quí song toàn” là cách tốt thứ 2 đối với phụ nữ, theo ý kiến của riêng tôi. Tuy nhiên, cách này cũng có khía cạnh đáng chê là người phụ nữ đó thường nghiêm nghị quá, thành ra mất vẻ nữ tính, nhất là gặp ông nào nhiều tình cảm thì thực là giảm nhiều khắng khít. Nhưng bù lại người phụ nữ đó rất vượng phu ích tử hoặc có tay làm ra tiền như thế cũng là hay lắm rồi.

Còn những cách liên hệ với tử vi như Tử Tham,Tử Tướng, Tử Phá … tôi không dám cho là tốt được, vì như Tử tham thì cũng tệ như những cách xấu nêu trên, nhất là có thêm đào hoa (mão hoặc dậu), Tử Tướng lại phạm vào câu “Đế tọa La Võng, hoàn vi phi nghĩa chi nhân”, còn Tử Phá tuy khá hơn nhưng hay có tính ngang bướng, bất cần đời mặc dù cũng đứng đắn

3/ Đồng Lương dần thân
Cách “Đồng Lương tối hỉ dần thân hội” cũng đáng gọi là hay vì người phụ nữ nào có cách này tính tình nhẹ nhàng, dịu dàng và nhất là có sắc đẹp mĩ miều (nhưng ở đây tôi không bàn về nhan sắc mà chỉ nói về tính tình). Tuy nhiên, cách này vẫn thua kém 2 cách trên về sự đứng đắn, đoan trang và quí phái, vì khi đã dính tới Thiên Đồng là chủ về thay đổi, canh cải, không giữ vững lập trường tức là không thể chung tình tuyệt đối được, nhất là khi Hồng Loan đồng cung.

4/ Vũ Tướng dần thân
Cách này hay ở chỗ là người đảm đang, đứng đắn, biết xoay xở quán xuyến, nhưng vì liên hệ tới Vũ Khúc nên tính thích cô đơn, lạnh lùng và quả quyết như đàn ông (do đó cần tránh Cô quả, lộc tồn), còn Thiên Tướng chủ về chỉ huy nên dễ bắt nạt chồng. Nếu ai chịu được những điều trên thì rất nên lựa người bạn đời có Vũ Tướng để khỏi bị gánh nặng gia đình trút hết vào mình, nhất là trong giai đonạ mưu sinh khó khăn hiện nay

5/ Vũ Sát mão dậu
Cách này chỉ hay ở phương diện đứng đắn, đoan trang vì 2 sao này cũng ghét tình ái bậy bạ, nhưng về tình vợ chồng thì vẫn xem trọng mặc dù không lả lướt lắm. vậy ai thích có vợ chỉ lo toan nội trợ hoặc tần tảo bán buôn thì hãy chọn cách này, nhưng cần phải tránh được Lộc tồn đồng cung và cô quả tại “thân” (vì không bao giờ cô quả tại Mão dậu) cư hợi hoặc mùi, để khỏi gặp người khắc chồng trở thành góa bụa

6/ Nhật Nguyệt đắc địa
Cách này có thêm Tả Hữu hoặc Song Lộc là người phụ nữ đảm đam nhất về phương diện kinh doanh lớn, nhưng có điểm kẹt khi gặp đào hồng hay riêu, mộc, cái thường hay thích ăn chơi ngoài xã hội dù vẫn lo chuyện làm ăn, vì Nhật Nguyệt bao giờ cũng chủ về mơ mộng vẩn vơ, có tâm hồn, “là thi sĩ nghĩa là du với gió”

7/ Cơ Lương thìn tuất
Cách này thường hay cho phái nam nhiều hơn nữ, vì rất hợp về mưu trí, kế hoạch, cho nên phụ nữ có cách này thì khôn quá có thể lừa dối, qua mặt chồng dễ dàng. Lẽ tất nhiên nếu không có các sao xấu hội hợp thì chẳng đáng ngại, nhưng lỡ có 1 vài điểm “mờ ám” nào là phải nên dè dặt đối với người bạn đời của mình

8/ Phủ Tướng triều viên
Đây là cách trung bình, nghĩa là chỉ chăm chỉ làm ăn, không có gì xuất sắc mà cũng không có gi đáng chê trách. Thường những người phụ nữ có cách này hay làm công chức, sống cuộc đời nề nếp

Các trung tinh tốt
Cũng cần nhìn vào Các trung tinh như thai tọa, khôi việt, quan phúc, tràng sinh đế vượng quang quí, long phượng, khoa, lộc (tôi không đề cập Hóa Quyền vì sao này không chủ về tính tình tốt của phụ nữ, có sao đó chỉ người kiêu căng, hách dịch, hay bắt nạt chồng) để cho điểm cao thêm vì những sao phụ trên đóng góp khá nhiều vào tính đọa đức, đứng đắn, đảm đang...

Trên đây là những cách rất đơn giản và sơ đẳng để giúp quý bạn nhận định về tính tình người phụ nữ hầu tránh được phần nào lầm lẫn trong việc lựa chọn ý trung nhân. Và trong tương lai, nếu có dịp, tôi sẽ trở lại vấn đề này với những cách khác lạ, khó đoán hơn nhiều để giúp quý bạn thấu triệt thêm vì có một vài lá số trông tưởng là “trắc nết” mà lại là đoan trang hoặc ngược lại. Ngoài ra, để cho công bằng, tôi sẽ viết một bài tìm hiểu về tính tình phái nam để các bà, các cô khỏi chê trách tôi dựa vào tử vi xoi bói cuộc đời họ mà che đậy các điều thầm kín của các “lang quân”.

NHỮNG CÁCH CỤC HY VỌNG CÓ THỂ GIÀU PHẦN 1

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
A. CÁCH QUA CÁC CUNG:
Phú là một cách quan trọng cho đời người. Vì vậy, la số Tử Vi dành rất nhiều cách, cục để nói về phú, qua các cung và rất nhiều sao. Mặt khác, thường khi phải xem cả lá số nhười phối ngẫu, vợ hay chồng, để biết tình trạng giàu nghèo nói chung của gia đình.
Về các cung, có những cung mô tả cách giàu của mình. Có cung chỉ cách giàu tiền, có cung chỉ cách giàu ruộng đất.
1. Cung Phúc đức:
Cung này chỉ tài sản của dòng họ, thường là của ông bà, xa hơn là tổ phụ
Cung Phúc tốt là điềm có di sản. Di sản mà lớn lao thì mới bảo đảm được sinh kế dễ thở lúc thiếu niên, giúp cho tuổi trẻ khỏi bị bận tâm về vấn đề sinh nhai. Mặt khác, cung Phúc tốt sẽ giúp con người có của ngay từ lúc mới chào đời. Khéo giữ của thì của đó bành trướng thêm và là yếu tố căn bản cho việc làm giàu. Người giàu nhờ di sản chẳng bao giờ bắt đầu bằng con số không. Tài sản thụ hưởng đó có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản do mình tạo lập về sau vì cung Phúc chiếu thẳng vào cung Tài. Vì vậy người ta nói cung phúc tốt là có của Trời cho.
2. Cung Phụ Mẫu:
Cung này chỉ tài sản của cha mẹ. Nếu có nhiều sao tốt, nhất là sao tài thì cha mẹ dư dả, có thể giúp đỡ cho mình một cách đáng kể, nhất là trong giai đoạn lập nghiệp buổi đầu. Sỡ dĩ như thế là vì cung Phụ mẫu bao giờ cũng tiếp giáp cung Mệnh, ngụ ý rằng, đương sự vốn phải sống nhờ cha mẹ, ít nhất là trong buổi thiếu thời. Nếu cung Phụ mẫu tốt thì nếp sống đó hạnh thông, giúp con người bước vào đời bằng một số vốn nào đó chứ không phải bằng hai bàn tay trắng. Mặt khác, liên hệ giữa hai cung Phụ mẫu và Mệnh còn rõ ràng hơn nếu cung Mệnh được nhị hợp với cung Phụ mẫu.
3. Cung Mệnh:
Về mặt tài sản, cung này chỉ khả năng thụ hưởng và khả năng tạo sản của mình. Nếu Mệnh tốt, đương số có triển vọng thụ hưởng sản nghiệp thừa tự và nhờ đó bành trướng thêm của cải khác.
Duy cung Mệnh không mấy quan trọng về mặt tạo sản bởi lẽ cung này ứng vào lúc thiếu niên, lúc con người đang tập sự vào nghề, đang đầu tư vào nghề nghiệp sau này, chưa đến lúc thụ hưởng lợi lộc của nghề nghiệp mang lại. Tuổi niên thiếu là tuổi tiền tiêu nhiều hơn là làm ra tiền.
Dù sao, nếu cung Mệnh có sao tốt, thì sự đầu tư có triển vọng đắc lợi về sau, hoặc là sẽ sớm có được của cải trong thời gian đang học nghề.
4. Cung Thân:
Cung Thân tượng trưng cho hậu vận, tức từ khoảng 30 tuổi trở đi. Đây mới là giai đoạn tạo sản, là thời kỳ mà nhân đắc dụng và sáng tạo nhất. Nếu Thân tốt thì tạo và hưởng được sản nghiệp, đủ nuôi thân và có thể nuôi gia đình, thân thuộc. Hơn nữa, Thân còn có thể xem là cung Tài thứ hai, vì cung Thân có ý nghĩa đa diên, bao hàm công danh, tài sản, gia đạo v..v..
Trong trường hợp Thân cư Tài, sự tạo sản sẽ tích cực hơn: con người nỗ lực xây dựng của cải, ha, kiếm tiền, bị chi phối nhiều bởi xu hướng làm giàu, thích tiền của, điền sản hơn là quyền tước, công danh. Bấy giờ, nếu cung Tài tốt, đương số dễ thành đại phú.
Trong trường hợp Thân đóng ở cung khác , những hay dở của cung này sẽ có tiếng dội trên của cải. Nếu ở cung Phu Thê, cái hay của cung này nhất định có lợi cho việc tạo của, bằng sức lực, công lao hay di sản của vợ chồng. Nếu cung Di tốt đẹp, thì bấy giờ thời thế sẽ thuận lợi cho việc làm ăn nhất là ở phương xa.
Tóm lại, cung Phúc và cung Phụ là tài sản thiên định cung Thân là tài sản nhân tạo của hiện kiếp và báo hiệu tài sản của hậu kiếp trong đời con cháu . Vì vậy cung Tài mới tiếp giáp và ảnh hưởng vào cung Tử.
5. Cung Tài:
Tài ở đây chỉ tiền bạc, bất đọng sản, quí kim, cổ phẩn, trương mục, tiền tích trong tủ, trong ngân hàng, tiền để dành và tiền đầu tư.
Nếu hai cung Mệnh và Thân mô tả nếp sống tổng quát của con người trong hai đoạn tiền vận và hậu vận, thì cung Tài mô tả chi tiết tình trạng tài chính, nhất là trong giai đoạn hậu vận (khả năng kiếm tiền, giữ tiền, mức độ giàu nghèo, nguyên nhân hao phí...). vì tiền bạc thường tích tụ vào lúc con người lập thân, cho nên cung Tài và cung Thân có nhiều liên hệ mật thiết, đặc biệt khi Thân cư Tài.
Một điểm cần lưu ý là ngày nay, cung Tài chứa một nội dung và nhiều hình thái phong phú hơn ngày xưa. Thủa xưa, tài chỉ tiền bạc, vàng mà thôi. Còn ngày nay, nhờ sự phát triển ngành ngân hàng và nới rộng mậu dịch, cung Tài còn chỉ cả trương mục, cổ phần, mà giá trị còn hẳn cao hơn hiệu kim tích trữ.
6. Cung Điền:
Theo quan niệm xưa, nặng vè nông nghiệp, chữ Điền TRạch chỉ nhà và đất (ruộng, vườn), do di sản hay do mua sắm. Nhưng ngày nay, nhờ sự bành trướng của kỹ nghệ và tiện nghi vật chất, cung Điền còn chỉ luôn xí nghiệp, sản phẩm biến chế, hoa mầu trên mặt đất và khoáng sản dưới lòng đất, đồng thời chỉ cả máy móc, xe cộ dính liền với các bất động sản đó. Cho nên chữ Điền ngày nay phong phú hơn chữ Điền ngày xưa.
Cung Điền tốt chỉ có nhiều bất động sản và động sản liên hệ. Thông thường cái tốt của Điền phản ánh hoăc ảnh hưởng đến cái tốt ở cung Tài. Lý do là có tiền mới sắm được bất động sản lớn. Tài là yếu tố của Điền, Điền là thể hiện của Tài, theo một hàm số liên hệ nhân quả. Nếu cả hai cung đều tốt thì là phú gia địch quốc.
7. Cung Quan:
Cung này bao gồm bổng lộc do chức tước hay nghề nghiệp tạo ra, cho nên bổ túc cho hai cung Tài và Điền. Cung Quan càng có thêm ý nghĩa tài sản nếu Thân cư Quan.
Theo quan niệm xưa, cung này chỉ quan trọng cho phái nam. Duy quan niêm này đang thay đổi vì trong xã hội hiện nay, phụ nữ ngày càng có nhiều địa vị xã hội, có nghề nghiệp và sinh kế riêng, bổ túc cho sinh kế của chồng. Vì vậy, xem số phụ nữ có địa vị, phải để ý thêm cung Quan. Mặt khác, cung Thê của nam số cũng góp phần bổ túc ý nghĩa tài sản của vợ, trong trường hợp người vợ có nghề nghiệp riêng.
8. Cung Di:
Phần lớn những nhà giàu có của nhờ gặp thời. Vì thế cung Di góp phần khá quan trọng cho việc lập nghiệp.
Trong trường hợp Thân cư Di mà được cung Di tốt đẹp, ý nghĩa này càng rõ rệt. Đặc biệt là cung này có tài tinh, sao may mắn, sao trợ tài. Bấy giờ, khả năng của đương số sẽ không quan trọng bằng sự hên may của thời vân.
9. Các cung Hạn:
Trong lá số, bất cứ cung nào cũng có thể là cug hạn (đại hạn 10 năm, tiểu hạn từng năm một). Các cung hạn ghi nhận những biến cố, những thay đổi về mọi phương diên trong đó có phương diện tài sản. Tuy cung hạn bị đóng cung trong cung Thân, cung Mệnh, cung Tài, song nếu gặp cung hạn tôt, tài vận vẫn có thể khá lên được, dù cung Mệnh, Thân hay Tài, Điền tầm thường.
Trong khi bốn cung Tài, Điền, Quan, Phúc nói lên tình trạng tổng quat thì các cung Hạn đi vào chi tiết của vấn đề tài sản. Cụ thể như cung Hạn cho biết năm đắc tài, năm nào hao của, nguyên nhân của việc thủ đắc hay hao tán v.v...

TƯ CÁCH NGƯỜI "DỊCH MÃ"

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
Dịch Mã chỉ là một phụ tinh nhưng lại đóng những vai trò khá quan trọng trong một lá số. Có thể nói từ lá số của một bậc quân vương, một danh tướng, một thương gia, hay một người bình dân mà đến thời điểm nào đó trong cuộc đời tạo dựng được những công danh sự nghiệp cho mình thì hầu như lá số của họ không thể không có sự góp phần của Thiên Mã. Lý do thật đơn giản vì Thiên Mã là biểu tượng của tài năng. Bởi vậy, một lá số mà cung Mệnh và cung Thân có Thiên Mã tọa thủ gọi là cách Dịch Mã.
Người ta thường cho rằng Thiên Mã thuộc hành Hỏa và trong 12 cung của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần, Thân, Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Trong khoa Tử Vi, Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu bay, tàu hỏa…
Đặc tính chủ yếu của người Dịch Mã là tính năng động, tháo vác, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển, thích tranh cãi, hay thay cũ đổi mới…Vởi những đặc tính ấy cho nên Thiên Mã không chỉ ảnh hưởng ở hai cung Mệnh và Thân mà nó còn tác động mạnh mẽ vào các cung chính như Quan Lộc, Thiên Di…là những lãnh vực của công danh và sự nghiệp.
Tuy nhiên khi nói đến mẫu người Dịch Mã, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ “dịch” là xê dịch, chuyển đổi, di chuyển, biến động… do đó cũng có người cho rằng hành của Thiên Mã thay đổi theo hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở Dần (hành Mộc) thì Mã ứng với người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã ứng cho người mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã ứng với người mạng Kim và Thủy…v.v. Nhu vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì đương số là người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng của mình. Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại không được những vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải bị mai một như một kẻ sinh bất phùng thời.
Người có Mệnh an ở hai cung Dần Thân có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ cố vấn, phụ tá cho các cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay giám đốc của một cơ sở hành chánh, thương mại…Hoặc cũng có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính thức nhưng ra đời thường được kề cận với những người có quyền thế trong xã hội.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh hay Nhật Nguyệt đồng cung mệnh hay hợp chiếu cát diệu là cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về văn nghiệp hơn là võ nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu rộng, có trình độ học vấn, có năng khiếu về các ngành như ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi vào những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này sẽ đạt được những công danh sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể thành công trên cả hai lĩnh vực cùng một lúc. Chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu có nhờ làm thương mại. Người Thư Hùng Mã có khả năng song thủ hỗ bác tương tự như người có Thân cư trong tam hợp Phúc, Di, và Phu Thê.
Người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn đồng cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa là bẻ roi đánh ngựa, giục ngựa lên đường, chỉ người có tài. Khởi sự làm gì cũng được may mắn thuận lợi. Nếu Thiên Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Thiên Di xung chiếu thì đây là cách Lộc Mã Giao Trì, ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là người được vận hội may mắn, được thừa hưởng những công lao thành qủa của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc Tồn là lộc trời cho, nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ những người trở nên giàu có nhờ trúng số, hoặc được thừa hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc Mã mưu sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may mắn.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh là Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ người có tài năng là thường là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là số của những quân nhân được thăng cấp rất nhanh chóng. Tuy nhiên cách Chiến Mã này tiềm tàng những tai họa về chân tay như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách hóa giải. Nếu đủ bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ nhỏ, hoặc bị bại liệt do các chứng bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu não, tiểu đường .v.v…
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc vàng, chỉ những người có tài năng, có danh tiếng trong một lãnh vực nào đó. Hạn gặp Mã Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến, là thời điểm mà danh tiếng của mình được người đời biết đến. Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng gặp được những cơ hội may mắn như được cấp trên giao phó công việc và được tín nhiệm hay thăng thưởng do khả năng và những thành qủa tốt đẹp của mình.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi Liêm đồng cung hay xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay như trong truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự như Mã Khốc Khách, chỉ người có tài năng và được nhiều may mắn, làm việc gì cũng thành chông dễ dàng và nhanh chóng. Hạn gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển. Nếu khởi sự một điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn là thời cơ đã đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với những công việc đi đây đi đó, cuộc đời là những chuyến hành trình không dứt.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Hình đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa kéo xe tang. Người có cách này suốt đời cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại nhiều, và thường gặp toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn khổ, tang tóc triền miên. Hạn gặp Mã Hình thì phải hết sức thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến trong thời gian này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của mình.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La đồng cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã. Có ý nghĩa là ngựa què, chỉ những người không được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn chung toàn là những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người khác làm thì thuận lợi may mắn, mình làm thì khó khăn, trở ngại. Bởi vậy trên phương diện dùng người, thì giao một công việc cần có kết qủa sớm, hay một kế hoạch quan trọng cho người có số Mã Đà hay đang trong vận Mã Đà thì đây là một quyết định từ sai lầm đến mạo hiểm của người có trách nhiệm.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt đồng cung, gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ Mã. Có nghĩa là ngựa chạy đến đường cùng, chỉ người làm việc thường thất bại, cuộc đời thường lâm vào cảnh bế tắc. Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp tuần triệt, gọi là Tử Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn nặng hơn Cùng Đồ Mã.
Thiên Mã là một trong những lưu tinh (sao lưu) khi xem hạn. Có nghĩa l2 vị trí của Thiên Mã sẽ thay đổi theo mỗi năm và gọi là Lưu Thiên Mã. Đó cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch” khi gọi Thiên Mã là Dịch Mã.
Khi xem hạn, nếu thấy Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì những điều sau đây sẽ xảy đến trong vận hạn: mua xe, đổi xe, đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du lịch v.v…Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi. Ví dụ: nếu đã đổi chổ ở thì sẽ không thay đổi việc làm, đi xa v.v… Nhưng cũng rất có thể xảy ra hai sự việc cùng một lúc. Những gì thay đổi trong vận hạn ít nhiều tùy theo vị trí của Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung hay xung chiếu. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc vào những sao chi phối trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm việc khác. Cũng có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt).
Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã điều quan trọng mà chúng ta phải cân nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh. Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã này mới là Mã của mình. Ngược lại nếu không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà thôi.
Trên thực tế chúng ta thấy hai lá số đều có Thiên Mã thủ Mệnh nhưng khả năng và sự may mắn của hai người hoàn toàn khác nhau rất nhiều. Người có Thiên Mã không hợp với bản Mệnh thì cũng là người có tài năng nhưng tánh tình rụt rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và không có ý chí phấn đấu để nắm lấy cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất đắc chí.
Với một lá số trung bình trở lên, người Dịch Mã là người đa tài. họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể thành công trên nhiều lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động, thích sự đổi thay và những chuyến hành trình như những bông hoa tô thắm cho cuộc đời của họ. Về khía cạnh này, cá tính của người Dịch Mã có phần nào giống như mẫu người Thân Cư Thiên Di mà chúng ta đã đề cập trước đây.

TÌM HIỂU VỀ CÁC CÁCH GÂY TAI HỌA TRONG TỬ VI

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
1. CÁCH HỌA QUA CÁC SAO:
a. Sát tinh: gây họa nặng nhất. Sát tinh làm cho mất mạng, chấm dứt luôn sự nghiệp, tài sản, gia đạo, ảnh hưởng sâu rộng đến rất nhiều lĩnh vực. Đối với công danh, sát tinh tiêu diệt quý cách, chấm dứt cơ nghiệp. Đối với tài sản, sát tinh tiêu diệt phú cách. Sự hiện diện của sát tinh ở những cung chỉ phú quý có nghĩa là đương số vừa nghèo, vừa hèn tức là không có tài sản, không có chức phận. Đối với gia đạo, sự hiện diện của sát tinh ở Phu Thê báo hiệu cho sự sát phu, sát thê, sự gián đoạn vợ chồng dưới hình thức ly hôn, ly thân hoặc vợ chồng phải sống xa cách nhau lâu năm, chưa kể các trường hợp bị ruồng bỏ vì ngoại tình hoặc đâm chém nhau vì xung đột hay khảo của. Đối với con cái, sát tinh là dấu hiệu sự sát con, con cái không vẹn toàn, sinh nhiều nuôi ít, hoặc bị tàn tật hoặc thuộc thành phần côn đồ, du đãng, gây phiền nhiễu cho cha mẹ, phá tán tài sản, ăn hết di sản lại còn mắc nợ, tạo nợ cho cha mẹ. Được xem là sát tinh có 8 sao: Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Không, Kiếp Sát. Càng hội tụ nhiều, càng bị hãm địa nhiều, những tai biến và thiệt hại kể trên càng dễ xảy ra sớm, mau, nặng nề. Sát tinh tụ hội ở cung nào thì cung đó bị ảnh hưởng nhiều nhất.
b. Hình tinh: tạo ra hình ngục, ảnh hưởng đến tự do cá nhân, kiện cáo di lụy đến uy tín cá nhân. Gặp hình tinh, trong trường hợp là nạn nhân, đương số sẽ bị giam cầm, tra tấn, đói khát, hành hạ thể xác và tinh thần, có thể bị đau ốm hay tật nguyền trong thời gian bị bắt giữ, có thể bị đầy ải ở chỗ rừng thiêng nước độc hoặc bị cầm cố ở xà lim chật hẹp, dơ dáy. Mức độ nhẹ hơn, hình tinh là dấu hiệu của sự kiện tụng, sự điều tra. Trong trường hợp này, uy tín, tài sản có thể bị hao hụt, chưa kể những lo lắng cạnh tranh, thù hằn phải gánh chịu. Hình tinh là các sao: Thiên Hình, Quan Phù, Thiên La, Địa Võng, Thái Tuế, Quan Phủ, Liêm Trinh (chỉ hình ngục, quan tụng một cách trực tiếp).
c. Bại, hao tinh: làm cho lụn bại, hao tán chẳng hạn như bị bệnh nan y, bị giáng chức, mất của, hao tài, tang khó, thân nhân đau ốm, tai nạn, vợ chồng nghi kỵ, anh em bất hòa, nhân tình ruồng bỏ. Hao bại tinh gồm có: Tang Môn, Bạch Hổ, Đại Hao, Tiểu Hao, Thiên Khốc, Thiên Hư. Sát tinh và hình tinh nhất định góp phần tăng cường hiệu lực cho hao, bại tinh hoặc là nguyên nhân, hoặc là hậu quả của hao bại tinh.
d. ám tinh: là những sao gây trở ngại, trục trặc. ứng dụng cho cá nhân, ám tinh có thể là vài tính nết đặc biệt kìm hãm sự tiến thủ của con người về mặt công danh tài lộc. Trường hợp đương số là nạn nhân, ám tinh tượng trưng cho tiểu nhân, đố kỵ, phá hoại, ganh ghét làm cản trở bước tiến của mình. ứng dụng cho công danh, ám tinh chỉ sự cạnh tranh trong quan trường, sự trục trặc về thủ tục, hoàn cảnh bất lợi cho thăng tiến. Các hình thái này cũng ứng dụng cho tài lộc. ứng dụng cho gia đạo, ám tinh là sự cản trở hôn nhân, sự phá hoại hôn nhân hoặc là sự xâm nhập của một người thứ ba vào đời sống vợ chồng, sự bắt ghen, sự gièm pha, chim vợ/chồng người khác ... ám tinh gồm các sao: Hóa Kỵ, Cự Môn, Phục Binh, Thiên Riêu, Thiên Không Phá Quân, Thái Tuế, Tử Phù, Suy, Tử, Trực Phù, Tuần, Triệt, Cô Thần, Quả Tú, Tuế Phá, Thiên Thương, Thiên Sứ.
e. Sao trợ họa: Hầu hết sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đều hỗ trợ cho nhau để gây tác hại dây chuyền. Những sao trực tiếp trợ họa bao gồm: Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Quyền, Quan Đới làm xấu thêm, nặng hơn. Riêng sao Thiên Tài thì làm xấu ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm miếu, vượng địa.
2. HỌA CHO CÁ NHÂN:
a. Họa của phái nam:
+ Họa đến tính mạng hoặc cơ thể:
Không, Kiếp, Binh, Hỏa, Linh: tai nạn binh lửa. Có khi không cần phải hội đủ cả 5, chỉ cần 3 cũng đủ (tối thiểu phải có Địa Không hoặc Địa Kiếp và Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh). Kiếp Không chỉ các tai nạn bất khả kháng, dữ dằn, nặng nề, thủ phạm rất lợi hại và hung bạo, hành động bất ngờ và nhanh chóng. Phục Binh chỉ sự ám hại, phục kích, thường có tòng phạm giúp đỡ. Hỏa hay Linh chỉ họa lửa như phỏng lửa, chết cháy, bị bom, bị đạn, bị chất nổ ... Nếu có thêm sát tinh, hình tinh, hao bại tinh khác thì càng dễ chết. Nếu gặp trợ họa như Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Quyền thì họa hại càng khó tránh. May ra gặp được nhiều sao giải mạnh mẽ hội tụ trong bối cảnh Phúc, Mệnh, Thân tốt mới khỏi, có thể chỉ bị thương.
Phi, Việt: hội với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp Hỏa, hai sao này chỉ lằn tên mũi đạn, đặc biệt là sao Phi Liêm. Bộ sao này thường ứng cho các tai nạn trên phi cơ hoặc họa về điện hay bị sét đánh.
Lưu Hà hoặc Cự, Kỵ: đi với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp, Lưu Hà chỉ họa
Kình, Đà: ám chỉ thương phế nhưng đi với Không, Kiếp vẫn có thể chết. Thương phế thường xảy ra cho tay chân. Đi với Hỏa, Linh thì phỏng ở tay chân.
Hình, Kiếp Sát: chỉ tai nạn nói chung, cụ thể là thương tích có thể đi đến mổ, cưa. Đi với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp, có thể chết vì binh đao hay vì bị mổ xẻ.
Quan Đới: đi với sát tinh chỉ cái chết bất đắc, chết mau chóng.
Tử, Tuyệt: chỉ cái chết nếu đi chung với sát tinh.
La, Võng: gặp sao tốt thì thành hung, từ đó góp phần gây họa vào các hạn xấu.
Thương, Sứ: chỉ dùng để xem hạn. Đi với sát tinh, Thương Sứ tác họa, không hẳn là họa binh đao.
Tướng, Hình - Tướng, Tuần hay Triệt: tác họa rất thảm khốc, cụ thể như chết trận, rớt máy bay, bị phục kích, thông thường chết nát thây có khi không tìm ra xác. Bộ sao này đóng ở Phúc, Mệnh, Thân, Tật hoặc Hạn đều nguy hại như nahu, không kém gì Không Kiếp Binh Hỏa Linh kể trên.
Mã, Hình: báo hiệu điềm bất tường, tai họa thảm thương.
Tướng, Binh, Tử, Tuyệt: chỉ họa binh đao hay họa chiến tranh.
Mã, Tuần hay Triệt hay Kình, Đà: chỉ thương tích tay chân do binh đao hay tai nạn.
Kình, Đà, Tuần hay Triệt hoặc Không, Kiếp: như trên.
Kiếp, Hình, Quan Đới: chết bất đắc, do mổ xẻ hoặc binh đao.
Sát, Hình hay sát tinh: bị ám sát, bị ám hại, tử trận.
Hỏa hay Linh, Kiếp, Không: tai họa rất dễ xảy ra, nhất là khi nhập hạn gặp phải.
Sát, Liêm ở Sửu Mùi - Sát, Hỏa, Hao - Phá, Hỏa, Hao - Sát (hay Phá), Việt, Hình: báo hiệu tai nạn binh đao.
+ Họa ngục hình, quan tụng hại đến tự do và uy tín cá nhân:
Thiên Hình: trừ phi đắc địa, trừ phi đương số hành nghề cảnh sát, thẩm phán, tình báo, trạng sư, Thiên Hình bao giờ cũng có nghĩa hình tù. Số tốt lắm thì Hình ứng về sự điều tra của cảnh sát, của tòa án, của giám sát viện hay của cơ quan an ninh tình báo. Trong trường hợp hành nghề thẩm phán, luật sư, cảnh sát, tình báo, tố tụng, Hình chỉ nghề nghiệp, chức vụ, quyền hành bắt giam hay xét xử người khác hoặc kiện thưa kẻ khác. Đi với cát tinh, hao bại tinh, ám tinh, hình tinh khác, Hình càng có nghĩa kiện và tù và bao giờ đương số cũng là nạn nhân. Có thêm sát tinh, tù tội nặng thêm, hình ngục khó thoát, làm cho tán mạng hay tán tài vì hình ngục. Đi với hao bại tinh, đương số khốn quẫn về tinh thần lẫn vật chất như lo sợ hoang mang, chán nản, tuyệt vọng, trốn tránh, mai danh ẩn tích mà lúc nào cũng sợ bị bắt, hoặc phải nuôi chí trả thù mà khổ sở. Cũng có thể hao bại tinh có nghĩa là trong thời gian thọ hình, đương số phải chịu nhiều cực hình như tra tấn, bỏ đói, hành hạ, đầy ải, mắc bệnh nan y.
Liêm Trinh hãm địa: chỉ sự bắt bớ, giam cầm, ở tù. Dù hành nghề gì mà Mệnh, Thân, Quan có Liêm hãm thì vẫn có thể bị hình tù như thường. Do đó, Liêm Trinh hãm địa ác hiểm hơn Thiên Hình nên đi với sát tinh rất dễ bị tù, bị kiện: Liêm, Kình, Đà, Linh, Hỏa - Liêm Hổ - Liêm, Kiếp, Hình ở Mão, Dậu - Liêm, Tham ở Tỵ và Hợi - Liêm, Kình - Liêm, Cự, Kỵ. Tuy nhiên, trường hợp Liêm Tham ở Tỵ và Hợi có Hóa Kỵ hay Tuần, Triệt đồng cung sẽ hóa giải hình tù của Liêm.
Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: chỉ bị kiện, bị điều tra, bị chỉ trích, bị vu cáo, bị nói xấu. Đi với sát tinh, khó tránh tù hay thanh toán vì tư thù, thưa kiện rất lôi thôi. Quan tụng liên hệ đến ba sao này thường là tội lường gạt, bội tín, quỵt nợ, sang đoạt. Quan Phù, Quan Phủ chỉ sự phản bội, sự lợi dụng lòng tin, sự xé lẻ, rã đám. Thái Tuế chỉ khẩu thiệt, cãi vã, chửi bới, chỉ trích, bút chiến, công kích.
Thiên La, Địa Võng: chỉ sự bắt bớ, giam cầm hoặc tối thiểu cũng gây trở ngại cho công việc, kìm hãm sự thăng tiến. Hình tụng, kiện tụng chỉ có khi La Võng đi kèm với sát hay hình tinh trong cục diện Mệnh, Thân xấu.
Hóa Kỵ: có nghĩa kiện tụng. Chất của Hóa Kỵ là ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ, nói cấu, vu khống để hãm hại người khác một cách tiểu nhân, nhỏ mọn. Quan tụng của Hóa Kỵ tương tự như Thái Tuế. Đi với Thái Tuế, Hóa Kỵ luôn nói xấu thiên hạ, ngồi lê đôi mách, đưa đến đôi co, đối chất, kiện thưa vì ngôn ngữ bất cẩn.
Đà La: chỉ sự ngoan cố, ngỗ ngược, bướng bỉnh, hẹp hòi, câu chấp và có ý nghĩa kiện tụng. Đặc biệt đi với Kỵ, Tuế thì quan tụng rất rõ. Có Đà La, thua kiện cũng không đầu hàng, còn tìm cách chống án, chạy chọt, vận động cho được phần hơn.
Cự Môn hãm địa (ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ): có ý nghĩa kiện cáo, nhất là đi chung với Hóa Kỵ, Thiên Hình hoặc sát tinh, ý nghĩa giống như Hóa Kỵ.
Cách kiện tụng và ngục hình còn do một số bộ sao dưới đây quảng diễn: Xương, Khúc ở Tỵ và Hợi - Xương, Khúc, Phá ở Dần - Nhật, Nguyệt, Riêu, Đà, Kỵ - Binh, Kỵ, Hình - Binh, Phù, Hình.
+ Họa sắc dục:
Nếu cung Phúc có Tang Môn, Đào Hoa, Hồng Loan và Thai thì dòng họ có người chết vì thượng mã phong. Nếu 4 sao đó đóng ở Mệnh, Thân hoặc Tật thì họa đó xảy ra cho mình.
Họa bị đánh đập vì đam mê tửu sắc có ba bộ sao: Tham, Đà ở Tý - Tham, Đà ở Dần - Tham, Vũ đồng cung gặp Phá.
Đau khổ vì tình: Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư, Lưu Tang, Lưu Hổ, Lưu Khốc, Lưu Hư.
Ngăn trở ái tình: Phục Binh, Hóa Kỵ, Cự Môn, Thiên Không, Kình Dương, Đà La hãm địa, Tuần, Triệt.
Sao chỉ sự phản bội: Quan Phù, Quan Phủ, Thái Tuế.
Sao chỉ sự xui xẻo: Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình
B. HỌA CỦA PHÁI NỮ:
HỌA TRINH TIẾT: muc này là tham khảo nên các b cần xét kỹ tam phương phi hóa cung tượng
Thai, Phục, Kiếp hay Không: chỉ sự cưỡng bức, có thể là tập thể.
Thai, Phục - Thai, Kiếp hay Không - Riêu, Phục - Riêu, Không, Kiếp - Tham, Phục - Tham, Không, Kiếp - Đào, Phục - Đào, Không, Kiếp - Đào Riêu, Không, Kiếp - Đào, Thai, Không, Kiếp: thất trinh thất tiết.
Đào, Riêu: lăng loàn, ngoại tình, có khi không phải với một người. Hồng Loan, Riêu cũng có nghĩa tương tự.
Đào, Thai: tiền dâm hậu thú.
Đào, Thai, Riêu: gái giang hồ.
Cự, Kỵ hay Tham, Kỵ: ám chỉ sự mất trinh, sự bất hạnh trong tình ái.
Thai, Hình, Hỏa, Tang, Hổ, Kiếp: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, tượng trưng cho sự thanh toán vì tình, sự trả thù của tình nhân ác độc.

CÔ THẦN - QUẢ TÚ có thực sự xấu như lời đồn?

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
Cô Thần
Cô có nghĩa là mồ côi (mồ côi cha sớm gọi là "cô") , còn có nghĩa là cô độc, (như "cô lập vô trợ" trơ trọi một mình không ai giúp), không cùng ḥa hợp, đứng riêng một mình, trơ trọi
Thần có nghĩa là bầy tôi, kẻ thuộc dưới quyền, đồng thời có nghĩa là thiên thần, thần thánh hoặc tinh thần, thần khí .
Quả Tú có nghĩa là góa chồng, hoặc phụ nữ năm mươi tuổi mà chưa có chồng cũng gọi là quả. Tú có nghĩa là ngôi sao .
Hai sao này đại đa số các sách cho là hành Thổ, nhưng Việt Viêm Tử cho là hành Hỏa, Cô Thần thì Dương Hỏa, Quả Tú thuộc Âm Hỏa. Cô Thần chỉ đóng ở Tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) và Quả Tú chỉ đóng ở Tứ Mộ.
Cô Quả có ý nghĩa cô độc, trơ trọi, lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lẽo, hiếm hoi nhưng cần xét kỹ vì Cô Quả cũng giống như Tả Hữu, là trợ tinh nhưng cường độ yếu hơn, gặp cát thì phù cát, gặp hung thì phù hung, theo hung tinh mà tác hại nhưng ảnh hưởng không mạnh mẽ. Đây là đặc điểm cần chú ư, chớ nên gặp Cô Quả thì cho là xấu, phải xét kỹ, nếu gặp nhiều hung tinh thì xấu thêm một chút, gặp nhiều cát tinh thì hóa cát thêm một chút v́ cường độ chi phối không mạnh lắm và chỉ có ý nghĩa mạnh thiên về tinh thần khi ở Mệnh, Thân, Phối và Hạn, thiên về vật chất khi ở Điền Tài. Chú ư đặc tính của Cô Quả chỉ có nghĩa khi tọa thủ và đủ bộ (hai sao này luôn luôn tam hợp chiếu với nhau), còn hội chiếu, nhất là chỉ có một sao chiếu thì ý nghĩa bị giảm thiểu rất nhiều. Tính chất cô độc của Cô Quả tăng lên khi đồng cung với Đẩu Quân, Lộc Tồn, Vũ Khúc.
Cô Quả hội với nhiều quí tinh, văn tinh thì là bậc học thức uyên thâm, tính t́nh nghiêm trang, cẩn thận. Hội với phú tinh và quyền tinh gặp thêm nhiều sao tốt thì là bậc đứng đầu thiên hạ v́ì Cô còn có nghĩa là trội lên hết tất cả. Ở cung Tài ĐiềnQuan Lộc sáng sủa là hợp cách nhất khiến cho công danh, tiền tài, điền sản được bền vững hơn
Thủ tại Mệnh, Thân:
Khó tính, kỹ lưỡng, mình làm việc gì cho chính mình thì ưng ý, còn người khác làm thì không cảm thấy hài lòng .
Có khả năng ăn uống khó tính, không thích thì không ăn .
Sống nội tâm, thường có sở thích riêng nào đó .
Không chia xẻ tình cảm, không thổ lộ t́nh cảm, khó ai hiểu được tính ư của bản thân cho dù là người rất thân với mình như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái .
Bạn bè thì có thể có nhiều, và thông thường có nhiều bạn, nhưng bạn thân thì ít. Giao thiệp rộng răi, nhưng chỉ là giao thiệp mà thôi, ít kết thân, kỹ lưỡng trong vấn đề chọn bạn (Cho dù có Tả, Hữu đồng cung cũng ít bạn thân). Nếu ai không hợp ư thì thông thường sẽ xa lánh không giao thiệp hoặc không thèm quan tâm đến.
Lạnh lùng (rõ nét khi đồng cung với Vũ Khúc)
Thường ít người thích do lạnh lùng, khó tính
Trên vấn đề hôn nhân tình cảm thì thường chậm trễ bắt nguồn từ sự khó tánh của bản thân, sự kén chọn, nếu có Đào Hồng chiếu thì vẫn có người theo đuổi nhưng lại quá kén chọn bỏ qua nhiều dịp. Gặp thêm Vũ Khúc thì càng rõ nhưng cần phân biệt rằng Vũ Khúc ảnh hưởng mạnh hơn Cô Qu. Nữ nhân Vũ Khúc, Kình, Quả đồng cung thì dễ không chồng do quá khó tính
Nam nhân có Cô Thần, nữ nhân có Quả Tú thủ Mệnh, nếu không được cát tinh hóa giải, thì dễ đưa đến đơn độc, khắc cha mẹ, hoặc khắc vợ chồng, hoặc khắc anh em như không ở gần cha mẹ, vợ chồng anh em, ly cách với họ, hoặc không vợ không chồng không con, hoặc góa vợ, góa chồng (Nam kỵ Cô, Nữ kỵ Quả). Nếu Nam Quả nữ Cô thì đỡ xấu nhiều hơn, có con thường chỉ tối đa là hai người, thường là hoặc nam hoặc nữ và con cái không gần với cha mẹ. Đồng cung với Vũ Khúc thì gia tăng tính cô độc. Mọi cát tinh, nhất là hành Mộc, dều có thể hóa giải tính chất cô độc của Cô Quả, càng nhiều cát tinh thì càng hóa giải mạnh
Các bộ sao kết hợp
Cô hay Quả gặp Vũ Khúc: nữ Mệnh gặp thì tối kỵ, lận đận về đường chồng con .
Quả Tú Đào Hoa gặp Thiên Mă: nữ Mệnh thì t́nh duyên lận đận, số phận chìm nổi lênh đênh.
Cô Thần, Thiếu Dương đồng cung tại Dần Thân Tỵ Hợi: sáng suốt, nhân hậu .
Cô Thần gặp Hồng Loan, Thiên Không đồng cung tại Dần Thân Tỵ Hợi: từ thiện, đạo đức .
Cô Quả tại các cung:
Hai sao này ảnh hưởng đến tinh thần là chủ yếu khi đóng ở Bào, Phụ Mẫu, Tử Tức, Thiên Di, Phối, Nô, Phúc Đức. Vì có ý nghĩa cô độc, trơ trọi, lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lẽo, hiếm hoi nên nếu không gặp cát tinh (chú ư điều này) thì có hại cho việc cầu hôn nhân, cưới hỏi, đoàn tụ, gây bất lợi cho cá nhân trong quan hệ ngoài xã hội, trong gia đình như trong tương quan giữa cá nhân với bạn bè, người giúp việc, người hôn phối, cha mẹ, con cái, anh em, họ hàng.
Cung Nô ít bạn thân cho dù thông thường có nhiều bạn bè, bạn bè thường không hiểu nhau
Nô tốt thì bạn bè nhiều nhưng không quan hệ lâu dài được phải xa cách bạn bè v́ một lư do gì đó, bạn bè tụ rồi tan
Huynh Đệ Anh em mỗi người mỗi ư nhưng cũng không có nghĩa là xung khắc.
Chủ giảm số lượng anh em, không có nghĩa là không có anh em, nhưng anh em dễ xa cách nhau .
Không hay thổ lộ tình cảm với anh em hoặc anh em không hiểu tính mình
Huynh Đệ xấu hoặc không cát tinh thì hoặc hiếm anh em (hai người là nhiều, nhiều hơn thì không hợp tính, hoặc không ở gần nhau), không nhờ cậy được anh em, hoặc ở xa cách anh em, hoặc anh em bất hòa.
Huynh đệ tốt thì cũng được anh em giúp đỡ, thông thường nhiều anh em nhưng anh em ly tán .
Phụ Mẫu Thường con cái và cha mẹ mỗi người một ý nhưng chưa hẳn là khắc nhau.
Phụ Mẫu xấu thì hoặc không hợp tính với cha mẹ, cha mẹ và con cái không hiểu tính nhau, hoặc không được cha mẹ giúp đỡ, hoặc có cha hoặc mẹ chết sớm (khi có hung sát tinh tại Phụ Mẫu)
Phụ Mẫu tốt thì cha mẹ lại hay quan tâm đến con cái, được cha mẹ quan tâm nhưng thường sớm xa cách cha mẹ (Phụ Mẫu có Cô Quả Tuần/Triệt án ngữ là một cách sớm ly hương hoặc xa cách cha mẹ một thời gian)
Phối Thông thường chậm hôn nhân, hoặc sống độc thân, hoặc vợ chồng không hiểu tính nhau, không hợp ư nhưng không có nghĩa là xung khắc.
Phối xấu thì bất hòa, chửi nhau, hoặc sống với chồng vợ cảm thấy lẻ loi, cô đơn, không chia xẻ t́nh cảm, nếu gặp hung sát tinh thì có thể đưa đến vợ chồng sinh ly hoặc tử biệt, hoặc vợ chồng phải xa cách một thời gian, hoặc vợ chồng ít khi gặp nhau, không ỏ gần nhau, lâu lâu mới gặp gỡ
Phối tốt thì cũng tốt nhưng vợ chồng thường ít chia xẻ t́nh cảm cho nhau, không hợp tính nhưng không xung khắc. Nếu vợ chồng sống hợp nhau thì thông thường lại không có con cái .Vũ Khúc gặp Cô Quả thì cho dù có rất nhiều sao tốt vợ chồng cũng không hợp tính
Tử Tức Giảm số con nhưng chưa hẳn là hiếm con hoặc khắc con. Thông thường hay chăm sóc cho con cái .
Tử Tức xấu thì hoặc ít con (thường chỉ hai con là nhiều), hoặc muộn con, hoặc con không gần cha mẹ, hoặc không hợp tính với con, hoặc xa con khi con còn nhỏ, hoặc con lớn lên không ở gần cha mẹ.
Tử tức tốt thì con cái cũng đông và tốt như thường,có nhiều quí tinh thì con đỗ đạt và rất chăm sóc con cái.
Phúc đức Gây ra sự ngăn cách giữa bản thân và họ hàng, thông thuờng không hợp tính với họ hàng nhưng không có nghĩa là khắc. Họ hàng hoặc ít người, hoặc không gần gũi họ hàng
Phúc Đức tốt thì cũng không nhờ cậy họ hàng được cho dù họ hàng khá giả
Thiên Di Ra ngoài ít bạn thân nhưng thông thường có nhiều bạn, thông thường có quan hệ rông răi, nhưng ít kết bạn thân, chọn lọc kỹ lưỡng
Di xấu thì ít được người giúp đỡ, thường phải tự lực là chủ yếu
Di tốt thì cũng được người giúp
Tài và Điền Là sao giữ của, tiền của không bị hao tán, điền sản bền vững nhưng không có nghĩa là bần tiện keo kiệt. Thông thường ăn tiêu dè xẻn .
Tài và Điền sáng sủa thì của cải điền sản rất bền vững
Tài Điền xấu thì giảm xấu đi một chút
Quan Tùy theo tốt xấu mà gia giảm đi một chút