Thứ Tư, 16 tháng 11, 2022

Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán:

Đầu tư chứng khoán là một hình thức tìm kiếm lợi nhuận được nhiều bạn trẻ quan tâm nhất hiện nay. Tuy nhiên, để việc đầu tư chứng khoán có hiệu quả cao đòi hỏi các nhà đầu tư mới cần trang bị nhiều kiến thức và kỹ năng cần thiết. Dưới đây là 8 kinh nghiệm cho người mới chơi chứng khoán giúp bạn tích lũy kiến thức đầu tư một cách toàn diện. 

Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán
Chia sẻ kinh nghiệm đầu tư chứng khoán cho người mới

Đọc tin tức thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Do đó, các thông tin liên quan đến kinh tế vĩ mô (chính trị, thị trường ngành hoặc các vấn đề kinh doanh nội bộ), dù lớn hay nhỏ, đều có thể ảnh hưởng đến kết quả giao dịch của bạn. 

Để đầu tư chứng khoán hiệu quả, việc theo sát thị trường là điều không thể thiếu. Các bản tin, phân tích thị trường, dự báo xu hướng liên tục được tung ra dựa trên dòng sự kiện cũng là những thông tin các nhà đầu tư F0 cần quan tâm. 

Ngoài ra, việc cập nhật tin tức kịp thời còn giúp nhà đầu tư nắm bắt được những biến động mới nhất, qua đó điều chỉnh các quyết định mua – bán phù hợp, tối đa lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro,…

Phân tích những mã cổ phiếu tiềm năng

Đây là bước mà nhiều nhà đầu tư không để ý nhưng nó lại có tác động lớn đến kết quả đầu tư dài hạn. Bạn cần tìm hiểu thật rõ ràng về nơi bạn đầu tư tiền, đừng tham gia thị trường chứng khoán một cách mơ hồ.

Ngoài ra, việc nghe theo quyết định đầu tư của ai đó không bao giờ là một lựa chọn khôn ngoan. Nếu may mắn, bạn có thể thành công và có lợi nhuận ngay từ đầu. Tuy nhiên, bạn sẽ không thể hiểu điều gì đã giúp bạn chiến thắng và làm thế nào để bạn tiếp tục điều đó. Và như vậy, rủi ro có thể đến với bạn bất cứ lúc nào vào những lần đầu tư tiếp theo.

Thay vì trả giá đắt cho sự thiếu kinh nghiệm chơi cổ phiếu của mình, giai đoạn này bạn nên dành thời gian để bổ sung kiến ​​thức về thị trường chứng khoán và cách phân tích cổ phiếu tiềm năng. Những kiến thức cơ bản này chắc chắn sẽ là khoản đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho bạn trong tương lai. Nhờ nó, bạn sẽ có những bước đi bền vững hơn trên con đường đầu tư.

Chọn mã chứng khoán tốt để đầu tư

Chọn mã cổ phiếu tốt để đầu tư
Kinh nghiệm đầu tư cổ phiếu

Trên thị trường chứng khoán, nhà đầu tư có nhiều lựa chọn khác nhau để sở hữu một hoặc một vài cổ phiếu trong số hàng trăm cổ phiếu niêm yết trên sàn. Tuy nhiên, không phải cổ phiếu nào cũng mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Để chọn được cổ phiếu tốt, nhà đầu tư cần tích hợp phân tích kinh tế vĩ mô, phân tích hoạt động kinh doanh, theo dõi thị trường và nhiều yếu tố khác.

Thông thường, tăng trưởng cổ phiếu gắn liền với sự gia tăng ổn định trong hoạt động kinh doanh của công ty. Một doanh nghiệp có doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng ổn định trong những năm qua sẽ góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho cổ phiếu của doanh nghiệp đó.

Thời điểm nên mua và bán cổ phiếu

Thời điểm mua

Cổ phiếu của một doanh nghiệp tốt không phải lúc nào cũng tăng giá trị. Sự thay đổi của giá cổ phiếu là theo chu kỳ, dựa trên sự phát triển kinh tế và ngành. Các yếu tố như chính sách của cơ quan quản lý Nhà nước, tình hình chính trị, lạm phát,… có tác động lớn và ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu của thị trường chứng khoán.

Ưu tiên đầu tiên của bạn nên là mua cổ phiếu khi nền kinh tế ổn định và cung tiền cao. Khi đó, tính thanh khoản của thị trường được cải thiện, kỳ vọng của nhà đầu tư tăng lên và giá trị cổ phiếu sẽ có xu hướng tích cực.

Trong thời điểm thị trường có nhiều biến động và kinh tế không chắc chắn, một cách tiếp cận khác là hãy đầu tư cổ phiếu của các doanh nghiệp có nền tảng hoạt động mạnh mẽ và duy trì tăng trưởng trong thời gian khó khăn. Lúc này, nhà đầu tư có thể tìm thấy những cổ phiếu đang ở dưới giá trị thực và có tiềm năng tăng giá trở lại trong tương lai.

Thời điểm bán

Bán cổ phiếu đúng thời điểm sẽ mang lại cho nhà đầu tư nhiều cơ hội thị trường. Đặc biệt, việc biết xác định thời điểm bán cổ phiếu phù hợp sẽ giúp bạn tối ưu hóa lợi nhuận. Một số trường hợp nhà đầu tư có thể cân nhắc đến việc bán cổ phiếu là:

  • Khi đạt được lợi nhuận như kế hoạch.
  • Khi công ty có biến động về cơ cấu tổ chức.
  • Khi cả lợi nhuận và cổ tức giảm sút.
  • Khi thị trường cổ phiếu đang giảm giá.
  • Khi giá cổ phiếu lớn hơn nhiều lần so với giá trị thực.
  • Khi không còn sự hài lòng với danh mục đầu tư hiện tại.

Giữ vững tâm lý khi đầu tư chứng khoán

Bình tĩnh khi đầu tư chứng khoán
Giữ vững tâm lý khi đầu tư chứng khoán

Với thị trường nhiều biến động như cổ phiếu thì việc chuẩn bị một tâm lý vững vàng là điều kiện cần đầu tiên để chiến thắng. Cho dù một cổ phiếu tốt được phân tích và lựa chọn hướng đi đúng đắn đến đâu thì nhà đầu tư cũng phải luôn giữ một thái độ ổn định. 

Mỗi cổ phiếu đều có thể tăng giảm khi cung cầu thị trường thay đổi. Do đó, nhà đầu tư cần đưa ra những quyết định chính xác, và những thay đổi thị trường dù là nhỏ nhất cũng cần phải ứng biến kịp thời.

Chọn phương pháp đầu tư chứng khoán phù hợp

Tùy theo khẩu vị rủi ro của mỗi người, nhà đầu tư có thể chọn mua và bán cổ phiếu trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong số đó, đầu tư ngắn hạn (lướt sóng) được nhiều các nhà đầu tư lựa chọn do tính linh hoạt của nó. Tuy nhiên, đây cũng là phương pháp đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro nhất.

Bí quyết lựa chọn cổ phiếu này đòi hỏi nhà đầu tư phải nhạy bén với thị trường, việc mua hoặc bán phải tuân theo xu hướng cổ phiếu và tin tức của công ty như giao dịch cổ đông lớn, giao dịch cổ phiếu, quỹ và các thay đổi.

Trong trung và dài hạn (hay còn gọi là đầu tư giá trị), nhà đầu tư cần tập trung vào các yếu tố cơ bản của doanh nghiệp và theo dõi hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đưa ra các nhận định trong tương lai. Các doanh nghiệp tăng trưởng và có kế hoạch kinh doanh bền vững sẽ được ưu tiên hơn. 

Đây là phương thức đầu tư ít rủi ro nhưng chỉ thu được lợi nhuận lớn nếu bạn thật sự kiên nhẫn và hiểu về doanh nghiệp mình lựa chọn.

Đọc sách đầu tư chứng khoán

Đọc sách đầu tư chứng khoán
Đọc sách đầu tư chứng khoán

Sách dạy đầu tư chứng khoán là những kiến thức, kinh nghiệm tinh hoa của các “bậc thầy chứng khoán” được tích lũy và gom góp vào. Do đó, việc đọc sách đầu tư chứng khoán sẽ giúp bạn khám phá được nhiều kiến thức mới, phát triển tư duy để đưa ra những quyết định đúng đắn nhất. 

Thế giới sách vốn dĩ rất bao la rộng lớn, muôn hình vạn trạng. Sách về chứng khoán cũng không phải ngoại lệ. Nếu bạn đang gặp khó khăn trong việc tìm những cuốn sách hay về đầu tư cổ phiếu thì hãy tham khảo một số gợi ý bên dưới:

  • Hướng dẫn cho người mới bước vào thị trường chứng khoán – Matthew R. Kratter
  • Giao dịch lớn – Peter Phạm
  • Bước đi ngẫu nhiên trên phố Wall – Burton G.Malkiel
  • Nhà đầu tư thông minh – Benjamin Graham
  • Giàu từ chứng khoán – John Boik
  • Cách tư duy và giao dịch như một nhà vô địch đầu tư chứng khoán – Mark Minervini
  • Cách kiếm tiền từ chứng khoán – William J. O’Neil
  • Thuật sĩ thị trường – Jack D. Schwager

Học theo triết lý của những nhà đầu tư thiên tài

Những câu chuyện thành công trên thị trường chứng khoán sẽ giúp bạn có thêm cảm hứng và niềm tin vào thị trường. Mỗi người đều có những nhận định và quan điểm đầu tư của riêng mình, rất đáng để học hỏi.

Ví dụ: phương pháp đầu tư của Warren Buffett, ông là một nhân chứng sống khẳng định tầm quan trọng của việc đầu tư và nắm giữ cổ phiếu trong dài hạn dựa trên phân tích cơ bản. 

Ngoài ra, bạn cũng có thể học hỏi thêm nhiều triết lý thú vị của các nhà đầu tư nổi tiếng khác như Benjamin Graham, Philip Fisher, Charlie Munger,…

Trên đây là những chia sẻ kinh nghiệm chơi chứng khoán cho người mới bắt đầu cực kỳ hiệu quả mà DNSE muốn chia sẻ với bạn. Hy vọng bài viết này đã đem đến những thông tin hữu ích và đầy giá trị dành cho bạn. Chúc bạn đầu tư thuận lợi và sớm đạt được mục tiêu tài chính của mình trong tương lai. 

Ứng dụng của mã QR tại Bắc Giang

 Kiểm kê hàng hóa, thông tin sản phẩm. Lưu trữ URL: Sử dụng điện thoại để có thể đọc QR Code để lấy URL và tự mở web trên trình duyệt. Ứng dụng tại các bến xe bus, xe lửa; tàu điện ngầm: Người sử dụng khi quét mã QR của bến xe sẽ biết được thông tin về các chuyến xe.

ứng dụng của qr code

Với khả năng mã hóa thông tin tốt, thiết kế nhỏ gọn, đơn giản, độ chính xác cao, mã QR code đang dần trở thành xu thế công nghệ mới và được sử dụng trong rất nhiều ngành nghề. Chỉ với hành động quét mã QR, người dùng có thể truy cập ngay vào trang web sản phẩm mà không cần mất nhiều thời gian gõ địa chỉ url, tìm hiểu thông tin về một sản phẩm hay mua sắm tại một gian hàng ảo….

ứng dụng của qr code

Cùng với thời gian, công nghệ tạo mã QR sẽ còn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Có thể liệt kê 40 ứng dụng nổi bật nhất của QR code trong cuộc sống dưới đây.

Ứng dụng của QR code

Ứng dụngCách thức hoạt động
Mua sản phẩmMã QR được gắn tại các quầy trưng bày sản phẩm ở những nơi công cộng như (trạm xe bus, nhà ga…), người dùng quét mã của từng sản phẩm để đặt mua và thanh toán online
Tra cứu thông tin sản phẩmThay vì in hàng loạt thông tin công dụng, thành phần, HDSD… NSX gói tất cả thông tin đó trong một mã QR code -> bạn có thể tra cứu thông tin bất kỳ lúc nào một cách nhanh chóng nhất
Tải file trên mạngQuét mã QR code bằng phần mềm tạo mã vạch lấy mã download thay vì nhấn share hoặc đăng nhập
Nhận thông tin về một mẫu quảng cáo/chương trình/sự kiện khuyến mãiQR Code được thể hiện dưới 1 hình thức lạ mắt, tạo sự tò mò -> kích thích người đọc Scan
Truy cập website/Fanapge nhanh chóng không cần linkQR code được thể hiện trên sản phẩm in ấn hoặc nền tảng online để người dùng có thể chỉ bằng 1 thao tác Scan đơn giản là truy cập được đường link -> share bạn bè
Gọi mónMột menu với hình ảnh các món ăn và 1 mã QR code, bạn chỉ cần quét mã và lựa chọn số lượng -> nhấn nút “gọi món” và chờ đợi trong một vài giây để được thưởng thức những món ăn tuyệt vời
Thanh toán tiền dịch vụ taxi/xăngKhông cần mang quá nhiều tiền mặt, không cần đợi lấy lại tiền thừa, không lo quên ví, chỉ cần có điện thoại, 1 lượt scan là có thể nhanh chóng thanh toán phí đi taxi hay tiền xăng
Check-in nhận quà tặng/hoặc điểm thưởngỨng dụng cho các dịch vụ liên quan địa điểm ví dụ nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, rạp chiếu phim
Đọc sách miễn phíQuét mã QR code bằng phần mềm mã vạch để tải ebook về điện thoại
Like một trang yêu thích nhanh chóngỨng dụng cho các bảng hiển thị lớn tại TTTM để khách hàng dễ dàng lựa chọn thương hiệu yêu thích, like fanpage
Đặt vé xem phimQR code tạo bằng phần mềm tạo mã vạch cho sản phẩm được in lên billboard quảng bá phim ngoài trời, người dùng muốn đặt vé scan mã -> chọn khung giờ chiếu -> phương thức thanh toán
Nạp thẻ điện thoạiQuét mã QR code -> nhập sđt để nạp tiền
Truy cập WifiScan QR code để truy cập một mạng wifi free ở nơi công cộng
Check địa điểm/poi trên bản đồ -> tìm đườngQuét QR code lấy thông tin địa điểm cửa hàng/công ty hoặc định vị GPS trên bản đồ để tìm đường đi
Gọi hotline trực tiếpThay vì bấm số từ bàn phím, quét QR code để kết nối với số hotline cần liên lạc (ứng dụng cho doanh nghiệp, cửa hàng, các tổng đài)
Nhận ưu đãi giảm giá khi mua hàngQuét mã QR code để nhận giảm giá sản phẩm
Đăng nhập tài khoảnZalo ads quét mã để kích hoạt tài khoản cho ứng dụng
Thêm danh bạ người dùngIn QR code chứa thông tin liên hệ lên Card Visit -> quét -> thêm danh bạ nhanh chóng kèm thông tin Họ tên, email, địa chỉ, chức vị, công ty…
Xem trực tiếp camera tại 1 nơi nào đóỨng dụng cho nhà trẻ, trường học, cơ quan… để có thể nhiều người cùng theo dõi được Camera (có thể thông qua tk đăng nhập)
Quản lý thông tin thú cưngỨng dụng cho các phòng khám thú ý, người chủ quét mã vạch trên cổ thú cưng -> tình trạng sức khỏe lần khám gần nhất, chiều cao, cân nặng, lời khuyên của bác sĩ, hoặc kết quả khám
Check thông tin khuyến mãi của sản phẩmỨng dụng cho sản phẩm bày bán tại nơi công cộng
Thực hiện khảo sátQuét mã -> làm khảo sát -> xong được tặng thẻ điện thoại
Kêu gọi tham gia chiến dịch bằng cách share + kèm thông điệpQuét mã -> nhấn nút chia sẻ/tham gia
Tra cứu chia sẻ thông tin thẻ BHYTquét mã -> nhận thông tin -> chia sẻ qua email
Tham gia một sự kiện online (mini game)QR Code được thể hiện dưới 1 hình thức lạ mắt, tạo sự tò mò -> kích thích người đọc Scan -> người dùng thực hiện 1 loạt các thao tác -> nhận được quà
Tra cứu lịch trình xe bus/tàu tàiTại các bến xe, nhà ga, hành khách chỉ cần quét mã QR code là biết được những xe bus nào đang hoạt động qua bến này, lịch trình từng xe, giờ tàu chạy…
Tra cứu bản đồ 1 khu vực nào đóỨng dụng tại các địa điểm công cộng, khu du lịch, vườn sinh thái… du khách quét mã QR code để lấy thông tin bản đồ khi bị lạc hoặc muốn tìm địa điểm đi phù hợp
Quảng cáo game onlineỨng dụng tại các điểm chờ xe bus, ga tàu. Khi hành khách có nhiều thời gian rảnh rỗi -> tạo ra một thú vui cho họ để giải trí thông qua việc chơi một trò chơi online
Nhận bản tin mỗi ngày từ những shop yêu thíchQR code được gắn trên thẻ thành viên. Mỗi ngày người dùng quét mã sẽ nhận được một thông tin mới
Xem TVC, Video quảng cáoQR code in trên Billboard quảng bá sản phẩm -> xem Video về sản phẩm -> quét mã QR code
Bình chọn cho một cuộc thiThay vì phải truy cập website, mỗi người đc bình chọn có 1 mã QR code, quét mã -> nhấn nút bình chọn
Xác thực hàng thật/hàng giảQuét QR code, trùng với dữ liệu của NSX -> Có thông báo hàng thật
Đọc báo onlineQR code in trên báo giất hoặc các bảng quảng cáo nơi công cocngjw -> người dùng quét mã truy cập trang báo online theo ngày
Nghe nhạc onlinePhòng tập thể hình, thư viện, quán café… tạo những album nhạc online riền -> người dùng lựa chọn phong cách nhạc -> quét mã QR code tương ứng -> kết nối nhạc online
Tra cứu thông tin vật thểỨng dụng cho các viện bảo tàng, khu du lịch sinh thái -> đưa thông tin về vật thể được trưng bày
Lưu trữ lịch học/lịch tập/lịch sự kiệnQR code đưa được kèm thông báo về sự kiện -> người dùng tham gia sự kiện quét mã QR code để đồng bộ lịch với điện thoại
Ứng dụng của QR code trong đặt phòng khách sạn
Tra cứu công thức nấu ănQR gắn với các nguyên liệu chứa thông tin về công thức nấu ăn từ nhà sản xuất
Nhận thông tin khuyến mãi định kỳ qua mail/sđtQR code gắn trên tờ rơi, để nhận được thông tin khuyến mãi định kỳ, người dùng quét mã, chọn accept -> nhập sđt hoặc email
ứng dụng của qr code trong đăng ký họcỨng dụng cho các phòng tập, trung tâm đào tạo. QR code được in trên tờ rơi. Người dùng quét mã -> nhận thông tin khóa học -> đky học online

TÂM LÝ NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN

Trong những chương trước, chúng ta đã thấy rằng rất nhiều, nếu không nói là phần lớn, những diễn biến lệch lạc trên các thị trường đầu cơ đều bị quy kết là những âm mưu thao túng thị trường, song thực tế đó lại là kết quả của những diễn biến tâm lý bất thường diễn ra trên các thị trường ấy. Đặc biệt, những biến động bất thường thường là kết quả của việc những người kinh doanh cổ phiếu cố gắng hành động không dựa trên dữ liệu thực tế hay những đánh giá của riêng mình về tác động của các yếu tố bên ngoài lên giá cả. Họ chỉ dựa trên những tác động mà họ tin là thực tế hoặc các tin đồn có thể gây ra đối với suy luận của những người khác. Thái độ này đối với thị trường đã mở ra một khoảng trống hoàn toàn mới mẻ, đó là sự phỏng đoán, thứ vượt ra khỏi mọi giới hạn thông thường của hiểu biết hay thực tế. Nhưng cũng sẽ thật là ngốc nghếch khi khẳng định rằng suy luận dựa trên những gì người khác đang làm trên thị trường là một phương pháp sai lầm. Nó thường làm cho những người chưa có nhiều kinh nghiệm cảm thấy rối trí; nhưng với những tay lão luyện thì đó đôi khi lại là chìa khóa thành công, tuy không phải lúc nào cũng là một phương pháp cho ra những kết quả chắc chắn. Một đứa trẻ lần đầu tập sử dụng một con dao sẽ có thể tự làm nó bị thương, nhưng con dao đó lại là một công cụ vô cùng hữu hiệu trong tay một đầu bếp tài ba. Vậy thì một người thông minh sẽ phải có thái độ như thế nào khi tham gia thị trường chứng khoán? “Một nhà đầu tư đơn thuần”, tức là mua vào bằng tiền của mình và nắm giữ cổ phiếu một cách tự phát không cần một giới hạn thời gian hay mục tiêu lợi nhuận nào. Anh ta chỉ cần xem xét những vấn đề này ở mức đủ để không khiến bản thân cảm thấy lúng túng trước những diễn biến thất thường trong tâm lý của đám đông hay trước chính những suy luận ngược của mình. Anh ta sẽ có được thành quả tốt đẹp nhất bằng cách dành hết tâm trí vào hai thứ quan trọng nhất: thực tế thị trường và giá cả. Tỷ lệ lãi suất hiện thời, khả năng kiếm lời của công ty mà anh ta đang nắm cổ phiếu, những diễn biến của tình hình chính trị có tác động tới thị trường vốn và sự thay đổi của giá cả trước những thực tế đó – đây chính là những dữ liệu quan trọng nhất cho sự đánh giá của anh ta. Khi thấy mình đang lạc quá sâu vào việc đánh giá xem “HỌ” sẽ làm gì tiếp theo, hay những tác động của các sự kiện lên tâm lý của các nhà đầu cơ ra sao, anh ta không thể làm gì khôn ngoan hơn là quay lại với những dữ liệu và lối tư duy thông thường. Nhưng với một chuyên viên kinh doanh chứng khoán, mọi việc lại hoàn toàn khác. Anh ta không cần phải quên hết thực tế đang bày ra trước mắt, song mục tiêu của anh ta là phải “cưỡi cùng con sóng.” Điều đó có nghĩa là hành động phần lớn dựa trên những điều những người khác sẽ nghĩ và làm. Và cũng chính bởi vậy, thái độ của anh ta sẽ là công cụ quan trọng nhất tạo nên thành công. Đầu tiên, anh ta phải là một người lạc quan một cách có lý lẽ. Bởi số phận dù có nghiệt ngã đến đâu thì có lẽ cũng không tồi tệ bằng sự bi quan của những người chỉ vì không thể nắm bắt được những động lực đằng sau những biến động của giá cả đã đánh mất đi niềm tin vào rất nhiều thứ quý giá khác trong cuộc sống. Tuy nhiên, do bản chất của ngành kinh doanh đặc biệt này, niềm lạc quan ở đây cần có một chút khác biệt so với niềm lạc quan truyền thống vốn vẫn đem lại thành công cho con người trong những ngành kinh doanh khác. Xét một cách chung nhất thì tính cách lạc quan có nghĩa là luôn luôn nuôi dưỡng hy vọng, luôn luôn tin tưởng vào bản thân, có một niềm tin chắc chắn rằng bản thân đang làm những điều đúng đắn và kiên định với mục tiêu đã đặt ra. Thế nhưng, bạn sẽ không thể khiến thị trường chứng khoán đi theo con đường bạn đã chọn chỉ bằng cách tin tưởng chắc chắn vào con đường đó. Đây là hoàn cảnh điển hình trong đó phương pháp tư duy mới mẻ không phải lúc nào cũng có thể được áp dụng một cách trực tiếp. Trong thị trường chứng khoán, bạn chẳng là gì ngoài một giọt nước trong vô số các con sóng sự kiện lớn nhỏ. Vì thế, lạc quan ở đây không có nghĩ là niềm tin rằng những con sóng sẽ cập bờ đúng lúc và đúng cách bạn muốn, mà là niềm tin rằng bạn có thể lướt cùng với chúng mà không để bị rớt lại đằng sau. Sự lạc quan này mang màu sắc của trí tuệ hơn là lý trí. Còn sự lạc quan chỉ dựa trên lòng quyết tâm chỉ là sự ngoan cố mà thôi. Một phẩm chất khác sẽ giúp bạn làm nên thành công trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống đó là lòng nhiệt huyết. Nhưng phẩm chất đó hoàn toàn vô dụng trên thị trường chứng khoán. Thời điểm bạn cho phép bản thân trở nên nhiệt tình và hứng khởi cũng là lúc bạn để cho năng lực suy luận của mình đầu hàng trước niềm tin và sự kỳ vọng. Lòng nhiệt huyết sẽ giúp bạn gây ảnh hưởng lên những người khác, nhưng trên thị trường, đó không phải là điều bạn muốn làm (trừ khi bạn là một nhân vật lớn, có khả năng dẫn dắt cả xu hướng đi lên của thị trường). Bạn chỉ muốn đầu óc mình được tỉnh táo, khách quan và điềm tĩnh như nước mặt hồ một ngày lặng gió. Bất cứ thứ cảm xúc gì – hứng khởi, sợ hãi, giận dữ hay u buồn – đều là những đám mây che mờ tâm trí. Cảnh báo những chuyên viên giao dịch chứng khoán rằng không nên ngoan cố là điều hiển nhiên đúng. Bởi không phải ai cũng đủ tỉnh táo tới mức có thể luôn tự động ngăn cản được mình không trở nên như vậy. Vấn đề là ở chỗ làm sao phân biệt một cách rạch ròi giữa một bên là kiên định và nhất quán theo đuổi một kế hoạch nào đó cho đến khi hoàn cảnh trở nên thuận lợi hơn; và một bên là ngoan cố bám lấy quan điểm của mình trong khi nhiều sự kiện sau đó đã chứng minh điều ngược lại. Nếu một ngày nào đó người ta có thể tạm quên đi thị trường chứng khoán, hay đẩy nó ra khỏi suy nghĩ của mọi người, thì ngày đó các chuyên viên kinh doanh của chúng ta sẽ có được tư duy hoàn toàn sáng rõ để nhìn nhận lại sự ngoan cố đến vô lý của họ. Chính bởi giả thuyết này mà đôi khi chúng ta cần tạm thời cắt đứt mọi hợp đồng hay cam kết và tránh xa khỏi thị trường trong vòng một vài ngày. Sai lầm thường gặp nhất của những người kinh doanh chứng khoán có lẽ là “sự thiển cận.” Người ta thường mắc phải điều này khi không có được cái nhìn toàn diện về những điều đang xảy ra. Một vài sự kiện nào đó khiến cho đầu óc chúng ta choáng ngợp và chúng ta quá quan tâm đến nó, tới mức nghĩ rằng chính nó đang ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Và chúng ta chỉ hành động dựa trên cách hiểu này của chính mình. Có thể bản thân quan điểm đó không sai, chỉ có điều là các yếu tố khác có thể khiến cho tác động của sự kiện mà chúng ta quan tâm không còn như trước nữa. Trên thực tế bạn sẽ luôn gặp phải vấn đề này. Bạn gặp một người khá bảo thủ và hỏi xem quan điểm của anh ta về tình hình hiện thời. Anh ta sẽ đáp rằng: “Tôi rất lo lắng về sự lan tràn của các quan điểm cấp tiến. Làm sao chúng ta có thể hy vọng rằng dòng vốn sẽ chảy vào các công ty mới một khi lợi nhuận của nó có thể bị cuốn đi bất cứ lúc nào do các quan điểm về pháp chế xã hội chủ nghĩa đang chiếm ưu thế.” Bạn nhẹ nhàng gợi cho anh ta nhớ về vụ mùa bội thu của ngành nông nghiệp trong năm nay, về tình hình kinh doanh tốt đẹp của các ngân hàng, về sự sôi động của ngành thương mại. Nhưng tất cả những thứ đó không gây được bất cứ ấn tượng nào tới anh bạn đáng kính đó cả. Anh ta đã bán hết cổ phiếu của mình và giờ đang cất tiền ở nơi an toàn là ngân hàng. (Anh ta cũng bán khống luôn một lượng cổ phiếu kha khá nhưng không hề nói cho bạn điều đó). Và anh ta sẽ không mua lại cho đến khi công chúng “có quan điểm lành mạnh hơn.” Người tiếp theo mà bạn hỏi thăm sẽ nói: “Thị trường sẽ không thể xuống sâu với tình hình mùa vụ thuận lợi như thế này đâu. Sản lượng nông nghiệp là cơ sở của mọi thứ. Với hơn chín tỷ đô-la gặt hái được từ các nông trại và được chảy thẳng vào các ngành kinh tế khác, chúng ta chắc chắn sẽ có một viễn cảnh tốt đẹp trong thời gian tới.” Lúc này bạn sẽ lại đề cập đến thuyết cấp tiến, về mối nguy đến từ những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội, về giá cả đời sống tăng cao… nhưng anh ta sẽ nghĩ những điều này chẳng hề quan trọng so với chín tỷ đô-la. Và tất nhiên là anh ta đang mua dần cổ phiếu vào. Hãy cảnh giác với câu nói: “Đây là yếu tố quan trọng nhất hiện nay”, trừ khi diễn biến của thị trường cho thấy mọi người cũng đang đồng ý với bạn. Mỗi người đều suy nghĩ theo cách riêng của mình, vậy thì hãy cứ cho rằng bạn có suy nghĩ khác với mọi người cho dù không phải lúc nào bạn cũng thấy như thế. Thị trường chứng khoán là sự kết hợp của rất nhiều cách nghĩ, với rất nhiều điểm khác biệt nhau. Bởi vậy dù bạn có một yếu tố nào có quan trọng đến đâu thì nó cũng sẽ không thể điều khiển được diễn biến của giá cả bất chấp mọi yếu tố khác. Một ví dụ điển hình của việc áp đặt quan điểm cá nhân là câu chuyện về “linh cảm”. Nếu đôi khi danh từ này thực sự mang một ý nghĩa nào đó thì nó cũng chỉ là một sự dâng trào đột ngột và mạnh mẽ của bản năng trước một ý tưởng nào đó khiến các nhà kinh doanh quyết định theo đuổi nó bất chấp mọi lý do. Trong rất nhiều trường hợp, “linh cảm” không là gì khác ngoài một sự thôi thúc mạnh mẽ. Hầu hết các nhà kinh doanh đều đã nhiều lần phát biểu rằng: “Tôi có cảm giác là chúng ta phải làm việc này” hoặc “Không hiểu sao tôi không thích đề nghị này lắm” nhưng lại không thể đưa ra một lời giải thích rõ ràng cho những quan điểm đó. “Linh cảm” của một người đã theo dõi thị trường chứng khoán đến nửa đời người cũng vậy. Chắc chắn đó là kết quả của sự tích tụ của rất nhiều những dấu hiệu nhỏ mà mỗi dấu hiệu đều quá mờ nhạt đến nỗi đầu óc của bản thân các chủ thể cũng không thể xem xét một cách rõ ràng được. Chỉ những nhà kinh doanh có kinh nghiệm mới có được “linh cảm.” Những tay mới vào nghề, hay những kẻ không hề theo dõi sát sao những yếu tố kỹ thuật của thị trường chắc chắn chỉ đang làm trò cười khi nói về “linh cảm” của bản thân. Một nhà kinh doanh thành công sẽ dần học được những diễn biến tâm lý của bản thân và làm quen với những sai lầm mà anh ta thường gặp phải trong khi đánh giá thị trường. Nếu thấy bản thân đang quá vội vã đưa ra kết luận, anh ta sẽ học được cách chờ đợi. Sau khi đã đưa ra quyết định, anh ta sẽ ngâm ngợi quyết định đó trong một thời gian nhất định cho tới khi cảm thấy nó đã chín muồi. Kể cả khi cảm thấy tự tin nhất, anh ta cũng sẽ không dồn hết quyết tâm vào một động thái nào đó mà sẽ để dành lại chút khoảng trống. Nếu cảm thấy mình đang quá thận trọng, anh ta sẽ học cách mạo hiểm hơn một chút, mua vào một ít cổ phiếu trong khi tâm trí vẫn bị bao phủ bởi màn sương của sự nghi ngờ. Hầu hết các gợi ý hữu dụng có thể được nêu ra ở đây đều sẽ ở dạng phủ định. Việc chỉ ra sai lầm sẽ có ích hơn nhiều so với việc đưa ra những hành động đúng đắn để rập khuôn theo. Nhưng một vài điểm tóm tắt sau đây có thể sẽ có lợi cho các nhà kinh doanh: 1. Mục đích chính của bạn là phải luôn giữ cho đầu óc minh mẫn và tỉnh táo. Do đó, đừng hành động vội vã dựa trên những thông tin cảm tính bề ngoài, đừng mua hay bán với khối lượng quá lớn đến nỗi phải lo lắng vì nó và đừng để bị ảnh hưởng bởi trạng thái của chính mình trên thị trường. 2. Hãy hành động dựa trên đánh giá của bản thân hoặc dựa hoàn toàn vào đánh giá của người khác. 3. Khi còn nghi ngờ, hãy rời xa thị trường. Trì hoãn sẽ đỡ tốn kém hơn là thua lỗ. 4. Hãy cố gắng nắm bắt xu hướng cảm xúc. Dù nó có thể tạm thời đi ngược lại những gì các yếu tố cơ bản đang chỉ ra nhưng đi ngược lại nó không phải là một phương cách hiệu quả. 5. Sai lầm lớn nhất của chín mươi chín trong số một trăm nhà kinh doanh đó là tin tưởng rằng thị trường sẽ còn đi lên khi nó đã ở đỉnh và còn đi xuống khi đã ở đáy. Vì vậy, đừng theo đuổi những gì bạn cho là không còn hợp lý, cho dù lợi nhuận mà bạn mất đi nếu không làm như thế có lớn đến đâu. Những gì vừa được nhắc đến trong những chương này đều còn khá mới mẻ. Khi được nghiên cứu một cách kỹ càng hơn chúng ta sẽ có thể nói về nó một cách chắc chắn hơn. Còn lúc này, tác giả hy vọng rằng những nhận xét và đề xuất của mình có thể giúp ích phần nào cho bạn đọc trong việc tránh những rủi ro không đáng có và áp dụng các nguyên tắc phân tích rõ ràng trong đầu tư và đầu cơ trên thị trường chứng khoán.

TÂM LÝ NHỮNG NGƯỜI ĐẶT LỆNH THEO TỶ LỆ

 Các quan sát viên của thị trường chứng khoán có lẽ sẽ sớm nhận ra rằng nhìn chung có hai kiểu tâm lý cơ bản sẽ ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Ta có thể tạm gọi chúng là “bốc đồng” và “lạnh lùng”. Ví dụ, một người “bốc đồng” sẽ cho rằng: “Cả các yếu tố cơ bản lẫn kỹ thuật đều đang có lợi cho giá cả. Cổ phiếu đang được mua vào.” Một khi đã có được kết luận này, anh ta sẽ tiến hành mua vào. Anh ta không hề cố gắng hay kỳ vọng rằng mình sẽ dò được đáy. Ngược lại, anh ta còn sẵn sàng mua ở đỉnh miễn là còn nhận thấy triển vọng đi lên của thị trường. Còn một khi anh ta đã kết luận rằng thị trường giờ đang có xu hướng quay đầu đi xuống hay sự tăng giá đã vượt quá những gì điều kiện thực tế cho phép, anh ta sẽ bán ra. Ngược lại, tuýp nhà đầu tư “lạnh lùng” sẽ không bao giờ chịu mua vào khi giá cả đang lên. Anh ta lý luận rằng: “Giá thường sẽ đi ngược lại một vài điểm so với xu thế chung, hoặc ít nhất là so với xu thế mà tôi nhận thấy. Vậy thì điều khôn ngoan nhất mà tôi có thể làm là tận dụng biến động trái chiều này.” Bởi vậy, khi tin rằng nên mua cổ phiếu vào, anh ta sẽ đặt các lệnh mua với giá giảm dần theo bậc thang. Suy luận của anh ta như sau: “Với tôi, dường như giá sẽ bắt đầu tăng khi nó đã giảm xuống những mức giá này, nhưng tôi không phải là nhà tiên tri, và giá thường sẽ giảm thêm khoảng ba điểm nữa khi tôi cảm thấy thị trường đã bắt đầu đảo chiều đi lên, như tôi đang thấy lúc này đây. Vậy thì tôi sẽ đặt các lệnh mua khác nhau với các mức giá thấp dần nửa điểm một trong một khoảng cách là ba điểm.” Những tay đầu cơ này quả là điên rồ và không ai có thể hiểu nổi điều kỳ quặc gì khiến họ nghĩ ra cái ngưỡng giảm tạm thời là ba điểm đó. Thế nhưng, những nhà tư bản lớn, đặc biệt là những nhân vật trong giới ngân hàng lại thường là những tay tư duy “lạnh lùng” kiểu như vậy. Họ không có đủ thời gian lẫn lòng kiên nhẫn để theo dõi sâu sát bảng giá và không thừa nhận khả năng một ai đó có thể dự báo được những đợt biến động nhỏ của giá cả trên thị trường. Tuy nhiên, họ lại luôn sẵn sàng tận dụng chúng khi có thể và vì sở hữu rất nhiều tiền, họ có thể dễ dàng đạt được mục đích của mình bằng cách đặt các lệnh mua và bán theo nhiều mức giá khác nhau. Thực tế là trên thị trường luôn tràn ngập các lệnh mua và bán kiểu như vậy, hiểu được chúng và cách chúng được thực hiện sẽ rất hữu ích trong việc đánh giá các điều kiện kỹ thuật cũng như xu hướng của thị trường trong ngắn hạn. Những người thuộc hai kiểu tư duy mà ta đã đề cập đến ở trên thực ra luôn hành động trái ngược nhau. Việc mua và bán của những kẻ “bốc đồng” thường khiến giá cả lên hay xuống, trong khi các lệnh đặt ở nhiều mức giá khác nhau của những kẻ ở nhóm bên kia lại giúp đảo ngược những chiều hướng biến động thông thường này. Giả dụ, các nhân vật trong ngành ngân hàng của chúng ta cho rằng tình hình thị trường hiện tại khá rõ ràng và xu hướng chung của nó trong thời gian tới sẽ là đi lên. Các lệnh mua vì thế được rất nhiều người đặt ở các mức giá giảm dần, thường là 1 điểm hoặc có khi chỉ là nửa điểm, ¼ hay ⅛ mỗi lần. Mặt khác, những người kinh doanh trực tiếp trên sàn lại cho rằng, với những diễn biến tạm thời không mấy có lợi, theo đuổi chiều hướng giá xuống sẽ là khôn ngoan hơn. Họ cũng hiểu rằng các lệnh mua ở nhiều mức giá khác nhau đã được đưa ra, song họ tin rằng cổ phiếu cũng sẽ được bán ra với giá giảm dần để lấp đầy các lệnh mua đó và mức giá hiện tại sẽ không thể được duy trì nữa. Nói một cách khác, lượng cung cổ phiếu lưu động trên thị trường hiện đã lớn hơn rất nhiều so với khối lượng mà các tay buôn bán cổ phiếu trên sàn vẫn quay vòng cho nhau. Bởi vậy, thị trường sẽ giảm cho đến khi lượng cổ phiếu đó được hấp thụ hết bởi các lệnh mua với các mức giá khác nhau nhưng thấp hơn so với giá hiện tại. Tình trạng này dẫn đến cái mà ta thường gọi là “sự kháng cự”. Một khi lượng cung lưu động đã được hấp thụ hết, thị trường sẽ lại tăng trở lại. Nếu xu hướng chung của nó đang là đi lên, nó sẽ ít gặp sự kháng cự hơn rất nhiều; giá cả sẽ tăng lên một mức cao mới. Và sau đó các lệnh bán chốt lời với các mức giá khác nhau lại được tung ra, và song hành với sự đi lên của thị trường, lượng cung lưu động lại tăng dần cho đến khi nó trở nên quá tải và thị trường lại cần một sự kháng cự khác. Cuối cùng, thị trường đạt được một mức cân bằng, hoặc một vài yếu tố vĩ mô thay đổi khiến cho một phần hoặc toàn bộ các lệnh mua bị rút lại, thay vào đó là các lệnh bán. Kịch bản của thị trường giá lên không thể tiếp diễn nữa. Giờ đây tạo ra thị trường giá giảm đã trở nên dễ dàng hơn nhiều so với tạo ra thị trường giá tăng. Tình hình lại trở nên hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta vừa mô tả ở trên, một xu hướng đi xuống của thị trường sẽ là điều không thể tránh khỏi. Thông thường, xung quanh đỉnh của mo t đợt bùng nổ sẽ va n co những đợt giảm giá nhẹ do ca c le nh đặt mua theo tỷ le , song ca c le nh ba n cho t lời với gia cao va n được ha p thụ he t khie n thị trường tie p tục bie n đo ng trong khoảng hẹp trong vo ng mo t tha ng hoặc hơn. Thực te , thị trường sẽ va n co n đứng ở mức đỉnh đó chừng nào lượng co phie u ma co ng chu ng muốn mua va o va n co n lớn hơn lượng ba n ra. Đo i khi hie n tượng này còn được gọi la “pha n pho i”. Mo t giai đoạn tương tự được gọi là “tích lũy” cũng thường xảy ra sau khi mo t giai đoạn giảm giá của thị trường đã hoàn toàn biến mất nhưng xu hướng đi le n th va n chưa xua t hie n. Nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình giao dịch cũng như tin tức được đăng tải liên tục trên các mặt báo thường sẽ cho phép các chuyên viên kinh doanh dày dặn kinh nghie m bie t được khi nào những le nh ba n hay mua theo tỷ le đo bị rút ra hay chuyển biến theo chiều ngược lại. Một thị trường giá lên đang tràn ngập các lệnh mua theo tỷ lệ sẽ được sự “ủng hộ” của những người đang tin tưởng vào chiều hướng ngược lại. Những người tin rằng thị trường sẽ đi xuống rất dè dặt trong việc đẩy giá xuống bởi với những lệnh đặt theo tỷ lệ của phía bên kia, cổ phiếu của họ vẫn liên tục rơi vào tay người khác. Họ cho rằng “rất ít cổ phiếu giá thấp được tung ra”; bởi vậy họ sẽ bắt đầu cảnh giác hơn với cách thị trường đi xuống. Ngược lại, trong trường hợp thị trường đang đi xuống, nó có được sự ủng hộ của những người ở tin vào chiều hướng đi lên và giao dịch trở nên sôi động một cách nhanh chóng. Càng gần đến cuối một đợt tăng giá, sự thay đổi càng dễ nhận biết. Giá giảm nhanh chóng với khối lượng giao dịch lớn, trong khi sự phục hồi tỏ ra rất chậm chạp và luôn vấp phải sức kháng cự lớn do các lệnh bán chốt lời gây ra. Đến lúc này, thời điểm các lệnh mua theo tỷ lệ bị rút lại hàng loạt sẽ rất dễ nhận ra. Trong một thị trường đang đi xuống, “áp lực” bán sẽ xuất hiện để hỗ trợ xu hướng chung của thị trường. Các lệnh theo tỷ lệ phần lớn được đặt nhằm chốt lời khi thị trường lên giá. Chỉ có một lượng nhỏ nhà đầu tư là đang mua vào thực sự, bởi vậy giao dịch càng trở nên ảm đạm mỗi khi giá nhích lên. Giai đoạn cuối của một đợt suy giảm, “sự hỗ trợ” tăng lên và “áp lực” dần tan biến, giá cả sẽ hồi phục nhanh và mạnh từ những mức rất thấp. Giả thuyết mà ta vẫn thường gặp lại là “lực hỗ trợ” cũng như “áp lực” đều là do những kẻ muốn thao túng thị trường gây ra. Nhưng trên thực tế, đó có vẻ như là kết quả của hoạt động đặt lệnh mua bán theo tỷ lệ của hàng trăm người khác nhau, những người mà tâm lý của họ với thị trường thường xuyên ngăn họ không mua hay bán một cách “bốc đồng.”

KHỦNG HOẢNG VÀ BỦNG NỔ

 Cả hai hiện tượng khủng hoảng và bùng nổ trên thị trường rõ ràng đều là những hiện tượng mang tính tâm lý. Điều đó không có nghĩa là những yếu tố cơ bản tại những thời điểm đó không đủ để khiến giá cả tăng hay giảm mạnh. Tuy nhiên, “khủng hoảng” tự bản thân nó cũng đã thể hiện một sự sụt giảm nghiêm trọng hơn những gì các yếu tố bên ngoài có thể gây ra, mà thường là bởi trạng thái quá khích của đám đông đi kèm với sự cạn kiệt của các dòng vốn; trong khi đó, từ “bùng nổ” được dùng để chỉ một sự tăng trưởng mang tính đầu cơ cao hơn mức cần thiết. Có những điểm đặc biệt liên quan đến hai hiện tượng khủng hoảng và bùng nổ rất đáng được chúng ta xem xét một cách riêng biệt. Chúng ta sẽ thực sự kinh ngạc khi biết nỗi sợ hãi một cuộc khủng hoảng có tác động lớn như thế nào tới tâm trí các nhà đầu tư. Ký ức về những sự kiện diễn ra trong năm 1907 chắc chắn đã giúp kiềm chế rất nhiều quy mô của các hoạt động đầu cơ trong khoảng thời gian từ đó cho tới nay (Tháng Tư năm 1912). Những cơn hoảng loạn với mức độ nghiêm trọng tương tự chỉ thực sự diễn ra một vài lần, và xác suất để nó diễn ra trong vòng một tháng thậm chí còn nhỏ hơn xác suất thua lỗ của các khoản đầu tư do các công ty nhận vốn bị phá sản. Thế nhưng, bóng ma của những trận cuồng phong đó vẫn thường hiện lên trong đầu của những kẻ non gan, thiếu kinh nghiệm bất cứ khi nào họ nghĩ đến chuyện mua vào. Một nhà đầu tư có thể nói: “Phải, cổ phiếu Reading có vẻ đang rất vững chãi đấy, nhưng hãy xem nó được bán với giá bao nhiêu vào năm 1907 – chỉ có 70 đô-la thôi!” Nhiều người thường cho rằng giá giảm trong một đợt khủng hoảng là do sự bộc phát bất ngờ của nỗi sợ hãi, thứ đến rất nhanh nhưng cũng qua đi chóng vánh. Nhưng không phải vậy. Theo một cách nào đó, nỗi sợ hãi bắt đầu khi giá đã lên gần tới đỉnh. Một vài nhà đầu tư thận trọng bắt đầu lo sợ rằng sự hưng phấn của thị trường đã qua và rằng một đợt sụt giảm nghiêm trọng sẽ đến liền ngay sau khi trào lưu đầu cơ giá lên đã đi quá đà. Họ bán ra dưới tác động của suy nghĩ này. Trong khi thị trường đi xuống, xu hướng này có thể kéo dài đến vài năm, càng ngày càng có nhiều người cảm thấy môi trường tài chính và kinh doanh trở nên khó khăn và họ thanh lý dần cổ phiếu của mình. Sự thận trọng hay nỗi sợ hãi này có biến động, lúc trồi lên, lúc lại sụt xuống như những con sóng, nhưng lại lớn lên sau mỗi lần đã lùi xa bờ. Sự hoảng loạn không hề đến bất ngờ, nó là kết quả của một quá trình tích lũy lâu dài. Đáy sâu thực sự của một đợt khủng hoảng thường là kết quả của sự cùng đường hơn là nỗi sợ hãi. Các nhà đầu tư cảm thấy sợ hãi vì cổ phiếu mình đang nắm giữ bị sụt giá sẽ từ bỏ chúng trước khi giá chạm đáy. Những mức giá thấp nhất thường được tạo ra bởi lệnh bán của các nhà đầu tư mà nguồn vốn của họ đúng trong thời điểm cấp bách như thế lại đang cạn kiệt. Phần lớn họ đều bị bất ngờ và vẫn có thể huy động được số tiền cần thiết để duy trì trạng thái của mình nếu có thêm chút thời gian; thế nhưng trên thị trường chứng khoán, “thời gian chính là điểm mấu chốt của mọi hợp đồng,” và thật không may, luôn là thứ duy nhất họ thực sự không có. Nguyên nhân chính khiến một nhà đầu tư phải gánh thua lỗ nghiêm trọng tại những thời điểm đi xuống của thị trường chính là việc anh ta không giữ đủ tỷ lệ vốn có tính thanh khoản cao. Anh ta bị ràng buộc bởi quá nhiều thỏa thuận đến mức chẳng còn nhận ra điều gì. Anh ta có thể có rất nhiều tài sản, nhưng lại không có một xu tiền mặt. Tình trạng này, đến lượt nó, là hậu quả của lòng tham, sự vội vã, tham vọng và sự tin tưởng quá dễ dàng vào tương lai. Trong các cuộc khủng hoảng, có một điều rất đáng chú ý đó là, một đợt giảm giá thường ập tới khi gần như tất cả mọi người đều nghĩ rằng giá đã xuống tới mức thấp nhất có thể, và do đó, giá cả tiếp tục tụt xuống mức còn thê thảm hơn thế. Kết quả là rất nhiều nhà đầu tư, những tưởng rằng mình đã “chạm đúng đáy”, nhận ra rằng đó chỉ là cái đáy giả và một lần nữa đành đứng nhìn những gì mình vừa mua vào xuống giá thảm hại. Bởi tất cả những gì chúng ta vừa nhắc đến ở trên mà đáy của những cơn khủng hoảng trên thị trường thường là kết quả của sự cùng đường, hơn là những suy nghĩ bi quan. Ví dụ, năm 1907, một người bình thường nhất cũng hiểu rằng cổ phiếu đang ở mức giá thấp hơn giá trị thực của nó – vấn đề là ở chỗ lúc đó, các nhà đầu tư không còn đủ tiền để mua vào nữa. Mặt khác, sau một thời gian dài thị trường đi xuống, giá cả sẽ ở mức thấp, nhưng bản thân nó lại chưa phải là lý do đầy đủ khiến người ta mua vào. Vậy còn lý do nào khác chăng? Chìa khóa của câu hỏi này nằm ở “sự tích lũy vốn có tính thanh khoản cao”, điều có thể dễ dàng nhận thấy bởi sự phục hồi nhanh chóng của số dư tiền gửi so với tổng nợ vay tại các ngân hàng ở New York (tất nhiên là trừ các quỹ đầu tư, nơi các khoản nợ vô cùng đa dạng và khó kiểm soát). Tuy nhiên, chủ đề này có lẽ sẽ đưa chúng ta xa rời chủ đề chính. Chính bởi vì giai đoạn cuối của cuộc khủng hoảng đã diễn ra không phải do quan điểm hay sự sợ hãi của công chúng mà là bước đường cùng của các nhà đầu tư không còn tiền để bảo toàn trạng thái của mình, nên giai đoạn đầu của thời kỳ phục hồi sau đó cũng thường diễn ra mà không cần bất cứ một lý do cụ thể nào. Các nhà kinh doanh chuyên nghiệp sẽ nói: “Thời kỳ khủng hoảng đã qua, nhưng cổ phiếu khó lòng lên giá được trong tình hình không mấy triển vọng như hiện nay.” Thế nhưng điều đó hoàn toàn có thể và cổ phiếu đang thực sự đi lên, bởi vì chính họ đang lấy lại trạng thái mà họ đã phải từ bỏ trước đây – bị buộc phải “bán tháo” cổ phiếu mình đang nắm giữ đi. Có lẽ từ “sợ hãi” đã bị lạm dụng quá nhiều trong khi phân tích thị trường chứng khoán. Nó chỉ bao hàm một số ít những người đã thực sự bán cổ phiếu đi dưới tác động trực tiếp của cảm giác “sợ hãi.” Thế nhưng một cảm giác thận trọng đủ mạnh mẽ khiến người ta bán ra, hay một niềm tin cứng nhắc rằng giá phải giảm cũng sẽ tạo ra một dạng biến thể khác của sự sợ hãi, và cũng đem lại kết quả tương tự. Tác động của sự sợ hãi hay thận trọng trong một đợt khủng hoảng không chỉ dừng lại ở việc người ta đem bán cổ phiếu, mà quan trọng hơn nó còn ngăn người ta mua vào. Ngăn cản một nhà đầu tư trì hoãn mua vào dễ dàng hơn nhiều so với việc khiến anh ta bán ra. Chính vì vậy, chỉ một khối lượng nhỏ cổ phiếu bị đẩy ra thị trường đang hoảng loạn cũng có thể gây ra sự sụt giá mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì nó làm được trong một hoàn cảnh khác. Lệnh bán có thể rất nhỏ, nhưng vấn đề là không ai muốn nó cả. Cũng chính vì yếu tố này mà sự hồi phục sau khủng hoảng thường diễn ra nhanh hơn. Các nhà đầu tư thận trọng, biết chờ đợi rất sợ phải đối mặt với một thị trường còn đầy rẫy những vết tích của khủng hoảng, xong một khi những dấu hiệu đi lên đã xuất hiện, họ sẽ lũ lượt kéo nhau mua vào. Bởi vậy mà sự bùng nổ, theo rất nhiều nghĩa, chỉ là sự đảo chiều của khủng hoảng. Cũng giống như nỗi sợ hãi cứ lớn dần và lan tỏa khắp nơi, sự tự tin và niềm hứng khởi cũng sinh sôi nảy nở ngày càng rộng cho tới khi nó ngự trị trong tâm trí hàng nghìn người, rất nhiều trong số họ còn tương đối trẻ và thiếu kinh nghiệm nhưng đã kiếm cả đống tiền trong suốt thời kỳ giá lên. Những nhà triệu phú hoang tưởng này xuất hiện rất nhiều trong những thời kỳ hưng phấn kéo dài của thị trường, nhưng rồi sau đó rơi rụng gần hết ngay khi giá cả đi xuống. Những kẻ đầu cơ này, thực tế chỉ là những kẻ vô trách nhiệm. Chính sự vô trách nhiệm của họ đã giúp họ kiếm tiền nhanh chóng nhờ giá cổ phiếu lên cao. Những người cẩn trọng thường chỉ kiếm được những khoản lợi nhuận khiêm tốn khi giá lên – nhưng chính họ cuối cùng lại là những người được lợi nhiều nhất. Khi những khoản lợi nhuận khiêm tốn đó đã được tích lũy đủ, thị trường đôi khi tạm thời rơi vào tay những kẻ hoang tưởng liều lĩnh trên. Chính việc mua vào một cách táo bạo đã khiến giá cả tăng lên nữa sau khi nó đã ở mức đủ cao – cũng giống như việc nó tiếp tục hạ xuống sau khi đã đủ thấp. Khi giá cả vượt khỏi ngưỡng bình thường, những người muốn bán khống để khai thác thị trường sau khi nó đạt đỉnh xuất hiện. Ý tưởng của họ thật đúng, chỉ là quá sớm mà thôi. Và trong khi thị trường vẫn tiếp tục đi lên, họ thường phải mua lại với giá cao hơn, một điều thật bất hợp lý xét từ mọi khía cạnh. Xu hướng này khiến những kẻ tính toán vội vàng này phải tạm thời ẩn nấp ở nơi an toàn và chờ đợi cơ hội tốt hơn. Tác động tâm lý trên diện rộng hơn cũng góp phần làm cho thị trường giá lên đạt tới những mức cao đến vô lý. Một thị trường như vậy thường đi kèm với sự tăng giá ở tất cả các ngành kinh doanh, và sự tăng giá như vậy thường khiến các nhà kinh doanh nghĩ rằng công ty của họ đang có lãi hơn so với thực tế. Nguyên do của ấn tượng sai lầm này có thể được khám phá thông qua thị trường hàng hóa. Ví dụ, một người buôn hàng tạp phẩm đang có trong tay lượng hàng hóa trị giá 10.000 đô-la vào tháng 1/1909. Vào thời điểm đó, chỉ số giá hàng hóa của Bradstreet đứng ở mức 8,26. Tháng 1/1910, chỉ số này là 9,23. Nếu giá của rất nhiều loại hàng hóa trong kho hàng của anh ta tăng với tỷ lệ bằng tỷ lệ của Bradstreet và anh ta vẫn giữ nguyên mức dự trữ như vậy thì anh ta đang có trong tay tài sản trị giá 11.168 đô-la vào tháng 1/1910. Vậy là anh ta đã có một khoản lợi nhuận 1.168 đô-la trong vòng một năm mà không cần phải làm gì, và có lẽ cũng chẳng phải tính toán gì? Nhưng khoản lợi nhuận này không hề có thật bởi với số tiền chênh lệch 1.168 đô-la vào tháng 1/1910 đó, những gì anh ta mua được không nhiều hơn so với thời điểm anh ta có thể mua với 10.000 đô-la vào tháng 1/1909. Anh ta đã tự lừa dối khi cho rằng mình đang giàu có hơn, và ý tưởng sai lầm này đã kích thích nhu cầu tiêu dùng trong đời sống và đầu cơ kinh doanh. Hậu quả gián tiếp của ảo tưởng rằng mình đang trở nên giàu có hơn bởi giá cả tăng cao thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả hậu quả trực tiếp của nó. Chẳng hạn, anh chàng buôn hàng tạp phẩm của chúng ta quyết định dùng 1.168 đô-la này để mua một chiếc ô tô. Quyết định này quả rất có lợi cho ngành xe hơi. Nhiều đơn đặt hàng đến sẽ khiến các công ty mở rộng nhà máy sản xuất. Điều đó có nghĩa là họ sẽ mua thêm nhiều nguyên vật liệu và thuê thêm lao động. Nhu cầu tăng khiến giá cả tăng cao ở khắp mọi ngành nghề kinh doanh; và bởi vậy, đến hết năm tiếp theo, có thể anh chàng buôn hàng tạp phẩm của chúng ta lại có thêm một khoản lợi nhuận tưởng tượng nữa, và lần này anh ta dùng nó để mua nhà hay sắm thêm nội thất chẳng hạn. Thị trường chứng khoán đương nhiên sẽ ngay lập tức cảm nhận được những biến động tăng giá này. Nhưng do toàn bộ câu chuyện giàu có ở trên chỉ là trò lừa tâm lý nên sớm hay muộn anh chàng buôn hàng tạp phẩm của chúng ta cũng sẽ phải kiếm tiền thực sự bằng cách lao động chăm chỉ, sống tiết kiệm và tính toán để bù đắp lại khoản chi phí thực sự cho ô tô và đồ nội thất mới của mình. Một lần nữa, giá cổ phiếu và giá hàng hóa lại tương tác với nhau. Nếu anh chàng bán tạp phẩm của chúng ta, thêm vào khoản lợi nhuận tưởng tượng 1.168 đô-la, lại thấy giá của mấy cổ phiếu mà anh ta mua để đầu tư tăng thêm khoảng 10%, chắc anh ta sẽ còn tiêu xài nhiều hơn nữa; và cũng như vậy, nếu các nhà tư bản nhận thấy thị trường đã đi lên khoảng 10%, có thể họ sẽ thuê thêm người làm, nhu cầu của gia đình họ giờ đây tăng lên và bởi vậy họ cần phải mua nhiều hàng tạp phẩm hơn. Cứ như vậy, cảm giác tự tin và hứng khởi cứ lan rộng ra mãi giống như những con sóng được tạo ra trên mặt nước khi ta ném một hòn đá xuống. Và tất cả những diễn biến này đều được phản ánh trung thực trên chiếc phong vũ biểu là thị trường chứng khoán. Kết quả là, trong những năm 1902 hay 1906, giá cổ phiếu cao cũng như sự sôi động trong các hoạt động thương mại hoàn toàn dựa trên những cảm nhận sai lầm bắt nguồn trực tiếp hay gián tiếp từ việc chúng ta đo đạc mọi thứ bằng tiền. Chúng ta cho rằng thước đo này là cố định và không bao giờ thay đổi bất chấp thực tế là giá trị của tiền cũng biến động giống như sắt thép hay khoai tây trên thị trường hàng hóa. Chúng ta đã quen với việc xác định giá trị của bột mì bằng tiền, nhưng lại luôn gặp vấn đề lớn khi phải xác định giá trị của tiền bằng bột mì. Nhưng khi mọi chuyện vỡ lở, thị trường chứng khoán, với vai trò là chiếc phong vũ biểu của nền kinh tế, lại sụt giảm đầu tiên trong khi các ngành kinh doanh khác nhìn chung vẫn hoạt động tốt. Công chúng giờ đây lại quay sang “nguyền rủa” những “con cá mập khát máu của phố Wall” và tất cả chỉ muốn quét sạch chúng nhanh gọn nhất theo cách nào đó. Thị trường chứng khoán, nếu không đi lên thì sẽ chẳng bao giờ được ưa chuộng; song về lâu dài, việc nó đi xuống sẽ làm lợi cho quốc gia hơn rất nhiều bởi những gì xảy đến với nó sẽ làm dịu đi những gì chắc chắn sẽ đến với toàn bộ nền kinh tế, nó cũng cảnh báo trước cho chúng ta những vấn đề cần đối mặt, giúp chúng ta chuẩn bị sẵn sàng cho nó. Nhìn chung, xác định thời điểm kết thúc của một đợt bùng nổ trên thị trường thường khó hơn nhiều so với việc xác định khi nào, một cuộc khủng hoảng đã hoàn toàn đi qua. Tuy nhiên, nguyên tắc cho cả hai việc này lại rất đơn giản. Chính sự dư thừa nguồn cung vốn là điều sẽ khiến thị trường bắt đầu đi lên sau khi khủng hoảng kết thúc. Tương tự, cạn kiệt vốn cũng chính là điều khiến xu hướng đi lên của thị trường chấm dứt. Sự cạn kiệt này có thể được nhận thấy nhờ lãi suất vay đầu tư ngắn hạn tăng, số dư tiền gửi so với tổng nợ vay tại các ngân hàng ở New York, lãi suất chiết khấu các giấy tờ có giá thương mại và phi thương mại cũng tăng dần.