Phá Quân là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, thuộc dương thủy. Trước đã nói Phá Quân trong Đẩu Số gọi là "tướng tiên phong", cho nên chỉ chủ về "xung phong", mà không chủ về "lui lại phòng thủ". Cũng tức là nói, phàm người có Phá Quân thủ mệnh thì chỉ có thể công mà không thể thủ, hơn nữa, sau khi công thành trì xong cũng sẽ để lại cho người khác cố thủ, bản thân lại phải đi xung phong ở trận chiến khác.
Về phương diện biểu hiện cụ thể, phàm người có Phá Quân thủ mệnh nhất định không thể ở yên, nếu nói về nhận lãnh chức vụ, thì người chủ nhất định sẽ giao nhiệm vụ khó khăn cho anh ta, đợi giải quyết xong khó khăn, lại điều phái đi làm việc khác, sẽ không bao giờ ngồi không mà hưởng, thậm chí còn không được hưởng thành quả do bản thân mình nỗ lực mà có.
Cho nên khi luận đoán tình huống cát hung của Phá Quân, cần phải xét xem nó có tính an định hay không, và năng lực khai sáng của nó lớn hay nhỏ. Đồng thời điều cần chú ý nhất là, bản thân nó có thể sáng lập sự nghiệp không, hay chỉ thích hợp bận rộn vất vả vì người khác.
Phá Quân rất ưa gặp Lộc Tồn và Hóa Lộc, ưa nhất là bản thân Hóa Lộc. Được sao lộc thì chủ về việc khai sáng có thu hoạch, nếu không, cuộc đời sẽ bận rộn vất vả vì người khác, chỉ mất công vô ích, còn bản thân thì được hưởng rất ít.
Cho nên khi gặp Phá Quân Hóa Lộc, mệnh tạo kiêm nhiều nghề, nhiều việc, nhiều chức vụ, hoặc gánh vác chức trách một cách quá mức.
Gặp Phá Quân Hóa Quyền, tình huống này đã thuật ở trên, nhưng so với Hóa Lộc thì vất vả hơn nhiều, nhưng thanh thế thì càng hiển hách.
Nếu Phá Quân không gặp sao lộc, lại không gặp Hóa Quyền, thì cần phải gặp Tả Phụ, Hữu Bật, mới chủ về có trợ lực, có thể giảm thiểu vất vả và lo lắng.
Nếu không gặp cát hóa, lại không gặp các sao phụ, tá cát, mà trái lại, gặp các sao sát kị cùng đến xâm phạm, thì cuộc đời mệnh tạo chỉ có thể làm công việc có tính phá hoại, mà thiếu tính khai sáng.
Cổ nhân nói: "Phá Quân gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về bôn ba vất vả, phạm pháp kiện tụng" (Phá Quân Hoả Linh, bôn ba lao lục, quan phi tranh môn); cổ nhân còn nói: "Phá Quân có Kình Dương, Đà La đồng cung, chủ về bị tàn tật." (Phá Quân Dương Đà đồng cung, chủ hữu tàn tật.); lại còn nói: "Sao hình và sao kị đồng cung, chủ về bị tàn tật." (Hình kị đồng cung, chủ hữu tàn tật); là nói lí lẽ này.
Thậm chí ở cung sự nghiệp cũng không nên có như vậy. Cổ nhân nói: "Phá Quân gặp Kình Dương, Đà La ở cung quan lộc, chủ về đi xứ khác kiếm ăn." (Phá Quân Dương Đà quan lộc vị, đáo xứ cầu khất).
Trong số sao cát, cũng không ưa Văn Xương, Văn Khúc, vì khí chất khác nhau. Cổ nhân nói: "Phá Quân có Văn Xương, Văn Khúc đồng cung, chủ về một đời làm bần sĩ." (Phá Quân Xương Khúc đồng cung, nhất sinh bần sĩ); chỉ khi nào Phá Quân độc tọa của cung Dần, có sao cát, mới ưa gặp Văn Xương, Văn Khúc. Cổ nhân nói: "Phá Quân ở cung Dần có Văn Xương, Văn Khúc đồng cung, chủ về quý." (Phá Quân Xương Khúc đồng cung vu dần, chủ quý).
Còn liên quan đến Thiên Mã, cũng có một số tổ hợp chủ về không ổn định. Bởi vì lực phá hoại của Phá Quân đã có ý vị không ổn định, gặp thêm Thiên Mã, ắt chủ về ý chí bất định, rời xa người thân, lưu lạc phóng đãng, không làm nghề chính đáng; nếu gặp thêm sao đào hoa, nữ mệnh càng chủ về ý chí bạc nhược, thấy mới là thay đổi. Khẩu quyết của phái Trung Châu là: "Phá Quân không có cát hóa, Lộc Tồn và Thiên Mã hội hợp với sát tinh, nam mệnh và nữ mệnh đều chủ về phóng đãng. Nữ mệnh đẹp thì cũng như Hồng Phất." (Phá Quân vô cát hoá, Lộc Mã hội sát, nam nữ lãng đãng. Nữ mệnh giai giả diệc như Hồng Phất.) Hồng Phất là thị tì của Dương Nghiệp, người đời Đường, đã lén bỏ theo Lí Tịnh, có chép trong sách sử.
"Sát, Phá, Lang" đều chủ về biến hóa thay đổi, nhưng tính chất hoàn toàn khác nhau.
Biến hóa thay đổi của Tham Lang rất nhu hòa, có ý vị phấn son, trang điếm và tư lợi, do đó chủ về ngầm thay đổi, tuyệt đối không có hành vi kinh thiên động địa, thậm chí còn có chút ý vị tu bổ, sửa chữa.
Biến hóa thay đổi của Thất Sát có thể đến đột ngột, khiến người ta không liệu tính được, hơn nữa sự thay đổi của nó chưa chắc có liên quan đến chuyện cũ, nghề cũ, có thể là một hành động hoàn toàn mới, như đổi việc làm, đổi nghề.
Nhưng biến hóa thay đổi của Phá Quân thì phải là "từ chuyện cũ mà sáng lập ra cái mới". Bất kể cải biến thành thứ to tát gì, cũng đều phải có liên quan đến chuyện cũ. Nhưng, do Phá Quân có ý vị phá hoại trước rồi mới kiến thiết sau, do đó cũng sẽ vì "chuyện cũ" mà phát sinh khó khăn, sau khi giải quyết xong những khó khăn này lại khai sáng ra cục diện mới. Người có Phá Quân thủ mệnh đặc biệt vất vả là vì lí do này.
Vả lại, sau khi Thất Sát và Tham Lang biến hóa thay đổi, có thể an hưởng thành quả của nó, còn Phá Quân thì không, lại chủ về công mà không chủ về thú, nếu bị buộc phái thủ thành thì trái lại, sẽ sầu khổ, nếu ở cung phúc đức thì càng như vậy.
Phá Quân chỉ có một tổ hợp tinh hệ chủ về vừa có thể công, vừa có thể thủ, gọi là cách "Anh tánh nhập miếu".
Kết cấu của cách cục này là Phá Quân độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, đối củng với "Liêm Trinh, Thiên Tướng". Phá Quân của bản cung Hóa Quyền, Liêm Trinh của đối cung Hóa Lộc đến chiếu, lại gặp các sao phụ, tá đến hội hợp, không có các sao sát kị hội chiếu, đây là cách cục thượng thượng. Cổ nhân nói: "Anh tinh nhập miếu, địa vị đến bậc tam công", (Anh tinh nhập miếu, vị chí tam công), là nói cách cục kể trên.
Có điều cách này không hợp với người sinh năm Bính, ngại vì Phá Quân không có sao lộc, hơn nữa còn có Liêm Trinh Hóa Kị đối củng, trái lại sẽ chủ vẽ cuộc đời nhiều lo lắng, họa hoạn, thị phi.
Ngoài ra còn có một hung cách. Lúc Phá Quân thủ mệnh, chỉ có một mình Văn Khúc Hóa Kị đồng độ, không thấy Văn Xương đến hội hợp, hoặc tuy có gặp Văn Xương, nhưng đồng thời cũng gặp các sao sát, kị, hình, thì gọi là "Phá Quân ám tinh". Văn Khúc Hóa Kị trở thành "ám tinh", ở đây không chỉ Cự Môn.
Cổ nhân nói: "Phá Quân và ám tinh cùng ở một chỗ trong nước, làm mộ phần." (Phá Quân ám diệu cộng hương thuỷ trung, tác trủng), khiến người ta hiểu lầm là nói về tai nạn sông nước, thực ra không phải, mà là nói "Phá Quân gặp ám tinh ở ba cung Hợi, Tí, Sửu, giống như nhập vào mộ phần, chủ về khốn khó đình trệ, chứ chẳng phải nói "tai nạn bất ngờ". Ba cung Hợi, Tí, Sửu thuộc thủy, cho nên nói là "trong nước" (thủy trung) mà thôi. Còn việc hiểu lầm "ám tinh" là Cự Môn, đã xảy ra nhiều tranh cãi. Người biết thì xem đây là điều cực kì bí mật, không chịu nói cho ai biết, khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số gặp nhiều khó khăn.
Phá Quân ở trong 12 cung luôn luôn đối nhau với Thiên Tướng, ảnh hưởng của Phá Quân rất là quan trọng đối với việc Thiên Tướng thuộc về "Tài ấm giáp ấn" hay là thuộc về "Hình kị giáp ấn".
Phá Quân độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, đối cung sẽ là "Liêm Trinh, Thiên Tướng"; ở hai cung Mão hoặc Dậu có "Liêm Trinh, Phá Quân" đồng độ; cho nên bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu, là tổ hợp "Liêm Trinh, Phá Quân, Thiên Tướng".
Phá Quân độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung sẽ là "Tử Vi, Thiên Tướng"; ở hai cung Sửu hoặc Mùi có "Tử Vi, Phá Quân" đồng độ, cho nên bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là tổ hợp "Tử Vi, Phá Quân, Thiên Tướng".
Phá Quân độc tọa ở cung Dần hoặc Thân, đối cung sẽ là "Vũ Khúc, Thiên Tướng"; ở hai cung Tị hoặc Hợi có "Vũ Khúc, Phá Quân"đồng độ; cho nên bốn cung Dần, Thân, Tị, Hợi là tổ hợp "Vũ Khúc, Phá Quân, Thiên Tướng".
Đại khái là, lấy trường hợp "Vũ Khúc, Phá Quân" ở hai cung Tị hoặc Hợi là khá tốt; còn Phá Quân độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân là rơi vào hãm địa, rất bất lợi.
II. Phá Quân biệt luận
1. Sáu kết cấu tinh hệ Phá Quân
Về phương diện quan hệ với tinh hệ hội hợp, bố trí của Phá Quân ở trong tinh bàn có sáu loại như sau:
- Ở hai cung Tí hoặc Ngọ, Phá Quân độc tọa, đối cung là "Liêm Trinh, Thiên Tướng".
- Ở hai cung Sứu hoặc Mùi, Phá Quân đồng độ với Tử Vi.
- Ở hai cung Dần hoặc Thân, Phá Quân độc tọa, đối cung là "Vũ Khúc, Thiên Tướng".
- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, Phá Quân đồng độ với Liêm Trinh.
- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Phá Quân độc tọa, đối cung là "Tử Vi, Thiên Tướng".
- Ở hai cung TỊ hoặc Hợi, Phá Quân đồng độ với Vũ Khúc.
Từ các tổ hợp trên có thể biết, các sao có quan hệ mật thiết nhất với Phá Quân, ngoài Thất Sát và Tham Lang tương hội ở "tam phương tứ chính", còn có bốn sao Tử Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thiên Tướng.
Thông thường, Phá Quân rất ưa gặp Tử Vi, bởi vi Tử Vi có thể khiến Phá Quân giảm bớt lực phá hoại. Nhưng thực ra, trong tình huống này nó như con ngựa bị cương tỏa, khiến cho kết cấu tinh hệ này tràn đẩy mâu thuẫn, cho nên hễ Phá Quân thủ mệnh ở bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, đều có thể khiến tinh thần của mệnh tạo bất an, khó chịu, thường tìm cách phát tiết, để giải tỏa sự mất quân bình về tâm lí. Nếu nó gặp các sao sát, kị thì phần nhiều cảnh ngộ đời người sẽ trắc trở, gập ghềnh, bất đắc chí, tâm lí mất quân bình càng nặng hơn. Nói "tính phản nghịch", tức là nói kết quả của sự ảnh hưởng kềm chế lẫn nhau của hai sao "Tử Vi, Phá Quân". Tuy nhiên, "tính phản nghịch" này sẽ không biểu hiện tùy tiện.
"Tử Vi, Phá Quân" thêm vào tính chất của Thiên Tướng, dễ phát triển thành mẫu người thần kinh chất; trừ phi cung mệnh gặp sao lộc, mà còn tụ tập đủ các sao cát, khiến cảnh ngộ đời người thuận lợi toại ý. Nếu không, mệnh tạo sẽ dễ đột nhiên phản ứng một cách dữ dội, mà bản thân họ cũng không khống chế nổi tâm trạng này.
Phá Quân và Liêm Trinh hội hợp trong tình hình tốt, có thể cương nhu chế hóa lẫn nhau; nhưng nếu hội hợp trong tình hình xấu, thì biến thành xung đột thị phi, họ sẽ không từ thủ đoạn nào để giải quyết mâu thuẫn.
Vũ Khúc có tính chất "cô độc và hình khắc", hội hợp với Phá Quân, khiến mệnh tạo có tính cách lạnh lùng, nghiêm khắc một cách quá đáng, dễ phát triển thành tự tư tự lợi, chỉ nghĩ đến bản thân.
Muốn thay đổi tính cách này, cần phải có nỗ lực hậu thiên cực lớn. Kết cấu tinh hệ này rất kị gặp các sao khoa cử công danh, bởi vì có thể phát triển thành tính nết kì quái lạnh lùng, mà nội tâm lại ưa có tiếng tăm. Rét căm căm mà không chịu mặc áo ấm, có lẽ là mẫu người có kết cấu tinh hệ kiểu này.
2. Phá Quân thủ mệnh không ưa an định
Do Phá Quân có lực phá hoại khá nặng, vì vậy cổ nhân cho rằng nó hóa khí làm "hao". Ý nghĩa của "hao" là tiêu ma, vì lực phá hoại của Phá Quân sẽ không đến một cách đột nhiên, mà thường thường có mang tính chất "tiêu ma", khiến cho sự tình từ tiệm biến chuyển thành đột biến. Hành động của con người thuộc hậu thiên thường có thể bổ cứu cho sự thiếu sót của tiên thiên, Phá Quân là một ví dụ, bởi vì trong quá trình chuyển biến, mệnh tạo có rất nhiều cơ hội để xoay chuyển tình thế của mệnh vận.
Cổ nhân ưa an định, mà không ưa biến động, thay đổi, cho nên không đề cao tính cách của Phá Quân. Đối với nữ mệnh Phá Quân, nhất là người xinh đẹp, cổ nhân nói: "Nếu nữ mệnh gặp Phá Quân, chủ về không có bà mai mà tự gả", "Sao Phá Quân tính bất minh." Chú thích nói: "Đây là sao cô độc dâm dật, không thích hợp với nữ mệnh; thêm tứ sát tinh, ắt sẽ vì gian dâm mà hại chồng, vì ghen ghét mà hại con, không phải vậy thì là xướng kĩ, tì thiếp thấp hèn."
Những luận đoán trên có thể đúng phần nào với xã hội cổ đại, bởi vì phụ nữ thời đó không có sự nghiệp riêng. Người có Phá Quân thủ mệnh lại cần phải tìm kích thích về tâm lí mới được quân bình, cho nên dễ dẫn đến gia đình bất hòa, thậm chí luân thường đảo lộn. Nhưng ở xã hội hiện đại thì khác, phàm là nữ mệnh có Phá Quân tọa mệnh, nhất định không chịu làm bà nội trợ, bởi vì có thể tìm kích thích trong sự nghiệp, sức mạnh "tiêu ma" cũng từ gia đình dời vào trong cương vị công tác.
Về đại thể, người có Phá Quân thủ cung mệnh hay thủ cung thân, nhất định không chịu sống nhàn hạ, dù sự nghiệp đã thành cục diện ổn định, họ cũng phải tìm cho được chuyện làm để khiến người ta phải kinh hãi. Nếu sức mạnh bảo thủ quá lớn, thì họ sẽ dễ thành người làm mưa làm gió.
Do đó, muốn đánh giá Phá Quân, cần phải tính đến đặc tính này. Giả dụ có thể đặt người này vào một cưong vị có tính độc sáng, họ có thể phát huy được sở trường, khiến sự nghiệp có thể thành tựu một cách đột phá, sáng tạo ra cục diện mới. Nếu có ý định không thay đổi, thì không thích hợp với người có Phá Quân thủ mệnh.
Đây chính là điểm mà cổ nhân đã căn cứ để bình luận về nữ mệnh Phá Quân. Vì vậy, ở thời hiện đại có một số người Phá Quân thủ mệnh cực kì oan uổng, họ bị xem là "bọn gây ra thị phi". Thực ra có thể chỉ vì thượng cấp của họ không biết dùng sở trường của họ.
3. Phân biệt các "động tinh"
Trong Đấu Số có mấy sao có tính chất "động" cần phân biệt một cách tinh tế, như: Thiên Cơ, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Thiên Mã.
Tính "động" của Thiên Cơ là "động" của "động não", như thay đổi kế hoạch, mưu tính, v.v...
Tính "động" của Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, về đại thể là chỉ một giai đoạn biến động thay đổi về sự nghiệp hoặc cuộc sống. Như sự nghiệp căng thẳng, nhân sinh quan thay đổi, v.v...
Tính "động" của Thiên Mã là chi "động" của thân thể, như đến nơi khác ở, hay đi tiếp xúc công việc, hoặc bôn ba vì sinh kế...
Đây là đại cương phân biệt các "động tinh". Nhưng có lúc về chi tiết vẫn rất dễ lẫn lộn. Ví dụ như nhìn mệnh bàn phát hiện ra mệnh tạo có sự thay đổi về công việc, đây là vì lưu niên gặp Thiên Cơ, nhưng cũng có người là vì gặp phải Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, làm sao phân biệt? về đại thể, vì tính "động" của Thiên Cơ mà xảy ra thay đổi, là thuộc về tính kế hoạch; còn vì Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang mà xảy ra thay đổi, thì ít nhiều có mang ý vị khai sáng.
Ví dụ như, có người bôn ba, bận rộn là vì ảnh hưởng của Thiên Cơ, nhưng có người lại vì cung mệnh hoặc cung phúc đức gặp Thiên Mã. Làm sao phân biệt các trường hợp này? Về đại thể, bôn ba của Thiên Cơ vẫn là vì kế hoạch; còn bôn ba của Thiên Mã là do nghề nghiệp phải như vậy. Ví dụ như một thương nhân vì phải bàn bạc kế hoạch đầu tư, nên phải đi phi cơ thường xuyên giống như đi taxi, đây là "động" của Thiên Cơ. Nhưng một nữ tiếp viên hàng không cũng phải đi phi cơ thường xuyên giống như đi taxi, thì lại thuộc tính "động" của Thiên Mã chủ động.
Ba sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang ở trong mệnh bàn là then chốt của sự biến động. Ở xã hội cổ đại, người xưa quan niệm nên tĩnh không nên động, mọi việc đều chú trọng phòng thủ, đi buôn xa không bằng mở hiệu buôn tại chỗ, người có học thì sợ sự nghiệp có sự thay đô’i, thay đổi thì danh tiếng sẽ không như ý, cho nên ba sao này bị xem là "Trúc la tam hạn".
Nhìn từ quan điểm của xã hội hiện đại, sự nghiệp thay đổi chẳng có gì phải sợ, trái lại đây còn có thể là cơ hội của đời người, do đó cách đánh giá "Sát, Phá, Lang" cũng phải khác với thời cổ đại.
Tuy về đại thể đều có tính chất biến động thay đổi trong cuộc đời người hoặc sự nghiệp, nhưng mỗi sao vẫn có đặc tính khác nhau.
Tính cách của Thất Sát chủ về "độc lai độc vãng", có sức khai sáng mạnh mà còn "phá hoại trước rồi kiến thiết sau", nhưng thiếu thận trọng. Cho nên cổ nhân đánh giá không cao người có Thất Sát thủ mệnh, cho rằng khó được vinh hiển. Xã hội ngày nay khác với xã hội thời cổ đại, người có tính cách mạo hiểm, trái lại sẽ dễ khai sáng sự nghiệp, hơn nữa, cơ hội khai sáng cũng nhiều hơn. Tại sao khó được vinh hiển?
Phá Quân giống Thất Sát, cũng có đặc tính phá hoại, chủ về biến động cực kì lớn, có thể ảnh hưởng cả một cuộc đời, nhưng nếu phân tích tỉ mỉ thì vẫn có sự phân biệt. Phá Quân thích hợp khai sáng mà bất lợi về phòng thủ, cho nên sau khi khai sáng sự nghiệp được chừng vài năm thì bắt đầu chán, mất hứng thú; còn người có Thất Sát thủ mệnh thì trái lại, vẫn có thể tiếp tục phát triển sự nghiệp. Cho nên Thất Sát tuy có tính "độc lai độc vãng", nhưng lực phá hoại lại nhẹ hơn Phá Quân. Cho nên cổ thư đánh giá Phá Quân thấp hơn Thất Sát, nói là "phóng đãng ".
Tham Lang cũng chủ về biến động, thay đổi, nhưng nhỏ mà còn ổn trọng. Vì vậy thiếu tính khai sáng, hơn nữa tính chất biến động, thay đổi lại thiên nặng về quan hệ xã giao. Vì vậy người có Tham Lang thủ mệnh thường chỉ tiếp cận một số người trong nhất thời, qua một thời gian là bắt đầu xa cách. Tính cách này rất bất lợi đối với sự nghiệp, ngày nay cũng phải có cách nhìn khác.
Hiểu rõ những đặc tính trên, khi phán đoán vận trình sẽ chính xác hơn.