Thông tin là vấn đề quan trọng
Nhưng việc xử lý thông tin là quan trọng
Việc kiểm soát thông tin
Thu thập các thông tin để xử lý chúng
Dòng tiền vận chuyển ra sao
Tìm hiểu các vận chuyển, lưu chuyển của nó
Kiểm soát
Liên hệ số di động/zalo: 0979766122 NGUYEN QUANG ANH Hỗ trợ cho tôi theo Số tài khoản: 0979766122 Vietinbank thành phố Bắc Giang
Thông tin là vấn đề quan trọng
Nhưng việc xử lý thông tin là quan trọng
Việc kiểm soát thông tin
Thu thập các thông tin để xử lý chúng
Dòng tiền vận chuyển ra sao
Tìm hiểu các vận chuyển, lưu chuyển của nó
Kiểm soát
Hạt SAP (Super Absorbent Polymer) là một vật liệu polymer chức năng, có cả khả năng hấp thụ nước và giữ nước độc đáo. Cũng như các ưu điểm của vật liệu polymer, nó có đặc tính xử lý và sử dụng tốt.
Mặc dù sự phát triển và nghiên cứu về Polymer siêu thấm chỉ có lịch sử hơn 30 năm. Nhưng do tính chất tuyệt vời của hạt SAP nên đã được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau. Xu hướng phát triển của SAP tốt, khiến nó dần trở thành một đề tài nghiên cứu khoa học độc lập.
Hạt SAP là cấu trúc mạng ba chiều. Nó không hòa tan trong nước và có thể hấp thụ một lượng lớn nước và trương nở để tạo thành một loại gel thần kỳ chứa nhiều nước.
Các tính chất chính của Polymer siêu thấm là sự hấp thụ nước và giữ nước. Điều này là do các phân tử của nó chứa các nhóm hấp thụ nước mạnh và cấu trúc mạng nhất định. Nghĩa là nó có một mức độ liên kết chéo nhất định trong Chemicalbook.
Cấu trúc vi mô của hạt S.A.P rất đa dạng do các hệ thống tổng hợp khác nhau. Hầu hết các loại polymer siêu hấp thụ được cấu tạo từ cấu trúc mạng ba chiều với các nhóm ưa nước mạnh (như carboxyl, axit sulfonic, phthalamide và nhóm hydroxyl) trên chuỗi phân tử.
Đề cập đến khả năng polymer phồng lên và tạo thành gel trong dung dịch để hấp thụ chất lỏng. Nó có thể được thể hiện bằng sự hấp thụ chất lỏng bão hòa.
Đề cập đến khả năng của gel sau khi hấp thụ nước để duy trì dung dịch nước mà không bị phân tách. Một khi polymer siêu thấm phồng lên sau khi hấp thụ nước để tạo thành hydrogel, không dễ để vắt kiệt nước ngay cả dưới áp lực lớn nhất. Tã giấy vệ sinh tận dụng tính năng này. Ngoài ra, khi hạt SAP hấp thụ nước được đưa vào khí quyển, tốc độ bay hơi nước của nó chậm hơn nhiều so với nước thông thường, rất hữu ích trong việc giữ ẩm đất.
Đề cập đến khối lượng chất lỏng được hấp thụ trong một đơn vị thời gian. Tốc độ hấp thụ chất lỏng có liên quan đến thành phần hóa học và trạng thái vật lý của chính nó. Chẳng hạn như diện tích bề mặt của các hạt, hiện tượng mao quản và liệu “bột” được hình thành khi chất lỏng được hấp thụ.
Khi nhiệt độ gia nhiệt tăng, khả năng hấp thụ nước giảm xuống một mức nào đó với sự gia tăng thời gian làm nóng. Nhưng nó không thay đổi nhiều dưới 130 ° C. Do đó, độ ổn định nhiệt của nó là tốt và nhiệt độ chung không cao khi sử dụng, khả năng thích ứng rộng.
Độ linh động của nước có trong gel trong đất. Hạt SAP được sử dụng làm chất cải tạo đất. Khi trộn với đất, điều quan trọng là nước của gel hấp thụ nước sẽ di chuyển vào đất. Khía cạnh này của hiệu suất cho hạt trữ nước SAP được bảo quản khi có một lượng nước lớn. Khi môi trường thiếu nước, nó có thể giải phóng nước hấp thụ ban đầu. Điều này có một triển vọng ứng dụng tốt trong nông nghiệp và kiểm soát sa mạc hóa.
Độ bám dính, hấp thụ chọn lọc, giải phóng chậm và lưu trữ nhiệt.
Hạt SAP trữ nước chống khô hạn không chỉ có khả năng hấp thụ nước và giữ nước tuyệt vời mà còn hình thành cấu trúc kết tụ trong đất, làm giảm chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm của đất.
Đồng thời, nó có thể hấp thụ phân bón và thuốc trừ sâu, ngăn ngừa phân bón, thuốc trừ sâu gây xói mòn đất. Nó tăng cường tác dụng của phân bón và thuốc trừ sâu, cải thiện đáng kể khả năng chống hạn.
Hiện tại, việc sử dụng hạt SAP trữ nước chống khô hạn trong vườn nông học vẫn còn rất hạn chế bởi Chemicalbook, chủ yếu là do chi phí cao hơn, khả năng hấp thụ nước trong đất không đủ và khả năng tái sử dụng kém.
Ứng dụng của hạt SAP trữ nước chống khô hạn trong lĩnh vực này cũng có tiềm năng rất lớn. Trong tương lai, chúng ta nên tập trung vào phát triển Polymer hấp thụ nước có khả năng thấm hút cao, giữ nước, có thể sử dụng nhiều lần và có chi phí thấp hơn. Nghiên cứu về đất, đặc biệt là sa mạc hóa.
Theo: natrachem.vn
Ngày 01/8/2019, tại trụ sở UBND huyện Yên Thế, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam đã phối hợp với Hội đồng Họ Dương tỉnh Bắc Giang tổ chức giới thiệu tiềm năng phát triển cây Mắc ca tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Tham dự Hội nghị có Thường trực Huyện ủy, UBND huyện Yên Thế; Ban Chấp hành Hiệp Hội Mắc ca Việt Nam; Thường trực Hội đồng Họ Dương tỉnh Bắc Giang cùng hơn 50 hộ dân đại diện cho bà con trong huyện, trong đó có ông Dương Văn Cộng – xã Tân Hoa, huyện Lục Ngạn, là hộ dân đầu tiên trồng và phát triển cây Mắc ca trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Tại Hội nghị, các Đại biểu được nghe Hiệp hội Mắc ca Việt Nam giới thiệu về tiềm năng phát triển và nhu cầu thị trường của sản phẩm Mắc ca tại Việt Nam và trên thế giới; Hiệp hội phân tích những điều kiện thuận lợi về khí hậu và thổ nhưỡng của huyện rất phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cây Mắc ca; chia sẻ những kinh nghiệm, kiến thức kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Mắc ca, cũng như cung cấp những thông tin toàn diện về việc cung cấp cây giống, kỹ thuật để mang lại hiệu quả và đạt năng suất cao đối với cây Mắc ca.
Yên Thế là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bắc Giang, thuộc vùng núi thấp, nhiều sông suối, độ chia cắt địa hình đa dạng. Diện tích đất lâm nghiệp hơn 13 ngàn ha, do vậy có nhiều điều kiện về thổ nhưỡng và khí hậu thuận lợi cho việc trồng và phát triển cây Mắc ca tại đây.
Nhằm giúp bà con có cách nhìn khách quan về cây Mắc ca tại tỉnh Bắc Giang, ông Dương Văn Cộng là hộ gia đình đầu tiên của tỉnh trồng thành công cây Mắc ca, ông đã giới thiệu và mời bà con thưởng thức sản phẩm Mắc ca của gia đình mới thu hoạch. Trong đó, ông trao đổi về hiệu quả kinh tế từ cây Mắc ca, theo ông thì cây Mắc ca hiện nay đang sinh trưởng và phát triển tốt, ra quả sớm, thích nghi với điều kiện khí hậu tại địa phương, ít công chăm bón, kháng bệnh cao. Với nhu cầu thị trường hiện nay, trong thời gian tới gia đình ông sẽ mở rộng thêm 4 ha cây Mắc ca.
Thay mặt Lãnh đạo huyện, ông Vũ Trí Hải, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Yên Thế đã cảm ơn sự quan tâm thiết thực của Hiệp hội Mắc ca Việt Nam, Hội đồng Họ Dương tỉnh Bắc Giang đã đem đến cơ hội và hướng đi mới cho bà con Họ Dương huyện Yên Thế nói riêng và bà con nhân dân tỉnh Bắc Giang nói chung. Lãnh đạo huyện sẽ chỉ đạo Phòng Nông nghiệp huyện tạo điều kiện thuận lợi để phát triển cây Mắc ca, mong muốn Hội đồng Họ Dương các cấp đi đầu thực hiện các dự án mẫu về phát triển cây Mắc ca để từ đó có cơ sở thực tiễn tuyên truyền về khoa học kỹ thuật và nhân rộng mô hình ra toàn huyện, giúp huyện phát triển kinh tế và cải thiện môi trường.
Hy vọng với sự quyết tâm của bà con nông dân, sự vào cuộc của lãnh đạo huyện Yên Thế, sự giúp đỡ của Hiệp hội Mắc ca Việt Nam, tương lai không xa những quả đồi trọc đang để hoang hóa của huyện Yên Thế sẽ được phủ kín bằng màu xanh của cây Mắc ca.
Ở Việt Nam, cây mắc ca được trồng khảo nghiệm từ năm 2002 tại một số vùng, sinh thái. Trên cơ sở kết quả điều tra, nghiên cứu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã quy hoạch vùng phát triển cây mắc ca thích hợp tại các tỉnh vùng Tây Bắc và Tây Nguyên. Ngày 24/9/2018, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Quyết định số 3697/QĐ-BNN-TCLN hướng dẫn kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc, thu hoạch quả và sơ chế hạt cây mắc ca.
Mắc ca được ví như một “ cây tỉ đô” tại Việt Nam bởi nó có giá trị dinh dưỡng và mang hiệu quả kinh tế cao, giúp bà con thoát nghèo bền vững. Chính bởi vậy, kỹ thuât ghép cây mắc ca là một trong những tiêu chí được bà con quan tâm hàng đầu
– Chuẩn bị gốc ghép: Các giống hiện nay được chọn để tạo cây gốc ghép là H2, 695, QN1… Phải ngâm hạt vào nước từ 1-3 ngày để chúng hấp thụ nước và thức phôi, loại bỏ các hạt xấu nổi lên mặt nước, sau đó ngâm tiếp 5 phút trong các dung dịch ngăn ngừa bệnh rồi đem ủ cho tới nứt nanh. Lúc này ta gieo chúng vào túi bầu như quy trình trồng các loại cây ăn quả khác. Khi cây được 12-15 tháng thì đưa đi ghép.
– Chuẩn bị chồi ghép: Chồi ghép có thể là chồi ngọn hoặc là đoạn cành của cây giống tốt. Chồi có màu trắng tro, các nách lá bắt đầu bật mầm, đường kính chồi ghép từ 0,5-0,7cm, chiều dài chồi ghép từ 7-10cm, có từ 2-3 mầm tốt, chồi không có biểu hiện sâu bệnh.
Ở đây chúng tôi giới thiệu đến bạn đọc kỹ thuật ghép cây mắc ca theo phương pháp ghép nêm nối ngọn
– Thời vụ ghép: Tháng 1-2 để có cây trồng vào tháng 6-7. Không ghép vào lúc đang mưa, nước thấm vào vết ghép làm cho cây ghép dễ bị chết.
– Tiêu chuẩn cây mắc ca ghép đạt chất lượng: Chiều cao phần ngọn tính từ vết ghép > 25cm; chiều cao cây ghép tính từ mặt bầu đất > 45cm, cây sinh trưởng tốt, không bị sâu bệnh, có từ 3 tầng lá trở lên.
Sau khi ghép cây mắc ca, cần tưới nước đầy đủ, thường xuyên bẻ chồi vượt mọc từ nách lá của gốc ghép, phun thuốc sâu bệnh định kỳ.
Sau 4-6 tuần chồi ghép bung chồi mới và sau 2-3 tháng nữa thì có thể đưa cây đi trồng. Nếu chồi ghép phát triển mạnh dây chưa kịp tự huỷ thì dùng dao rạch đứt dây ghép.
Trường hợp chồi ghép lên rất nhiều mầm, cần tỉa chồi ngay trong vườn ươm chỉ giữ lại 1 chồi khoẻ nhất, định kỳ 1-1,5 tháng phun phân bón lá cho cây.
Ðó là anh Lò Văn Pâng, dân tộc Thái, ở xã Nà Tấu, TP Ðiện Biên Phủ (Ðiện Biên). Nhờ đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm kinh tế cho nên hiện nay anh Pâng đã sở hữu khối tài sản hàng chục tỷ đồng với nguồn lợi nhuận từ nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái.
Ðưa chúng tôi thăm khu trang trại rộng hơn 50 ha phủ kín mầu xanh mướt của cây mắc-ca, cây ăn quả được đầu tư gần mười tỷ đồng, anh Lò Văn Pâng nhớ lại những ngày đầu bắt tay kiến thiết trang trại. Tốt nghiệp trung học phổ thông, anh Pâng không đi học nghề mà ở nhà lập gia đình rồi chuyên tâm làm nông nghiệp. Tùy mùa vụ, anh đi thu mua thêm nông sản rồi bán lại cho thương lái. Sau 12 năm chăm chỉ làm ăn, gia đình anh bước đầu có của ăn của để và tiết kiệm được một số vốn. Không an phận, anh Pâng luôn trăn trở nghĩ cách phát triển kinh tế mới. Anh cho biết: "Tình cờ xem ti-vi biết đến mô hình trang trại kết hợp du lịch sinh thái, tôi đã nghĩ ngay đến triền đồi trên đèo Tằng Quái. Tôi hình dung hàng cây xanh mướt, những luống hoa, đường mòn xen giữa hàng cây. Thật mừng là ý tưởng xây dựng trang trại cây xanh kết hợp du lịch đã nhận được sự ủng hộ của gia đình. Từ năm 2011, tôi bắt đầu mua gom đất, thuê nhân công xây dựng, kiến thiết đường đi, hàng cây".
Chia sẻ ý tưởng làm du lịch sinh thái của mình, anh Lò Văn Pâng hào hứng nói: "Tôi làm đường đi vòng qua các quả núi, cứ cách 200 m tôi xây một ngôi nhà nhỏ với đầy đủ điện, nước, phòng bếp, phòng nghỉ… Nếu gia đình nào đến đây nghỉ dưỡng, muốn nấu ăn cũng được, muốn đặt cơm, tôi cũng sẵn sàng phục vụ các món ăn dân tộc. Với chi phí chỉ vài trăm nghìn đồng mà cả nhà được một ngày nghỉ vui vẻ, hòa mình với thiên nhiên".
Anh còn cất công về Viện Cây nông nghiệp Việt Nam, nhờ các kỹ sư tư vấn cách trồng cây mắc-ca. Ðể mắc-ca phát triển tốt, anh mang mẫu đất xuống thuê kỹ sư kiểm tra xem mẫu đất thiếu các loại vi khoáng chất như thế nào để được tư vấn cách bón phân sao cho hiệu quả nhất, cây phát triển tốt, cho quả sai. Sau gần 7 năm, đến nay 20 ha đã cho thu hoạch. Dù năng suất năm đầu chưa cao nhưng theo anh Pâng, so với trồng ngô, lúa, mắc-ca cho thu nhập cao hơn gấp vài chục lần. Hiện nay, trung bình mỗi năm gia đình anh Pâng có nguồn thu gần hai tỷ đồng.
Chủ tịch UBND xã Nà Tấu Giàng A Chợ nhận xét: "Khi nghe anh Lò Văn Pâng nói ý tưởng, tôi đã khuyên anh ấy tính toán thật kỹ vì trồng cây mắc-ca với diện tích lớn nhiều rủi ro nhưng anh ấy khẳng định "sẽ thắng lợi". Quả đúng là như thế! Cả tỉnh không ai mạnh dạn như anh ấy, dám bỏ ra hàng chục tỷ đồng đầu tư trồng hơn 30 ha cây mắc-ca mà không cần sự hỗ trợ nào".
Từ kinh nghiệm phát triển kinh tế của gia đình, anh Pâng sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ người dân trong xã Nà Tấu và các xã lân cận kinh nghiệm và vốn làm ăn. Năm 2019, anh Lò Văn Pâng vinh dự là nông dân duy nhất của tỉnh Ðiện Biên được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam vinh danh Nông dân điển hình tiên tiến toàn quốc.
Chiều 26/9, đồng chí Thào Xuân Sùng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thăm mô hình liên kết trồng và thu mua mắc ca của Công ty Cổ phần DAMACA Nguyên Phương với hơn 300 hộ dân tại thôn Lộc Xuân (xã Phú Lộc, huyện Krông Năng, Đăk Lăk).
Theo Hội Nông dân tỉnh Đăk Lăk, mô hình liên kết trồng cây mắc ca của Công ty Cổ phần DAMACA Nguyên Phương đã tạo ra hiệu quả rất tốt, hỗ trợ rất nhiều cho nông dân trồng mắc ca. Gần 300 hộ dân tại xã Krông Năng đã thực hiện liên kết sản xuất và được công ty cam kết thu mua với giá cao. Riêng năm 2019, đơn vị này đã chi hơn 8 tỷ đồng thu mua nguyên liệu trong dân.
Chia sẻ với Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, chị Nguyễn Thị Thu Phương – Tổng Giám đốc Công ty CP DAMACA Nguyên Phương cho biết, công ty là đơn vị tiên phong tại địa phương tổ chức liên kết với nông dân từ khâu sản xuất đến tiêu thụ cho người dân, cam kết thu mua giá cao hơn giá thị trường. Từ sản phẩm thô, đơn vị đã nghiên cứu cho ra đời 3 dòng sản phẩm mắc ca sấy, mắc ca sô cô la và dầu mắc ca, nâng giá trị sản phẩm tăng thêm 30%.
Chị Nguyễn Thị Thu Phương cho biết thêm, chị đến với ngành hàng mắc ca vừa là cái duyên, vừa là trăn trở từ chính gia đình mình. Trước đây gia đình có khoảng 3 ha cây mắc ca nhưng không có đầu ra, hoặc bán với giá rất thấp. Tại địa phương, nhiều hộ nông dân cũng lâm cảnh tương tự.
Trải qua một thời gian ấp ủ, Phương quyết mày mò nghiên cứu, thành lập công ty chế biến và liên kết sản xuất thu mua mắc ca cho người dân. Hiện nhà máy của công ty có công suất 200 tấn/năm, tạo công ăn việc cho 10-20 lao động thường xuyên tại địa phương.
Tham quan mô hình cây trồng mắc ca đạt chuẩn và cơ sở chế biến quả mắc ca tại đây, đồng chí Thào Xuân Sùng đánh giá cao cách làm mạnh dạn của công ty. Đồng thời, bày tỏ đơn vị cần tăng cường liên kết chặt chẽ với nông dân, đảm bảo tính sản xuất bền vững, tăng chuỗi giá trị từ khâu sản xuất đến tiêu thụ.
Để nâng cao giá trị hơn, công ty cần đầu tư sâu công nghệ sản xuất để tăng chất lượng và mẫu mã sản phẩm, đáp ưng nhu cầu "thượng đế" là người tiêu dùng.
Chia sẻ những khó khăn, vướn mắc, chị Nguyễn Thị Thu Phương nói: "Mắc ca là cây trồng mới, chưa có quy chuẩn nhất định. Qua đây, mong muốn Trung ương Hội Nông dân quan tâm, hỗ trợ nông dân xây dựng quy chuẩn sản xuất mắc ca. Việc này không chỉ hỗ trợ nông dân, mà còn giúp doanh nghiệp thuận lợi trong việc xây dựng thương hiệu mắc ca chất lượng, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng để xuất khẩu. Đồng thời, nguồn vốn đề đầu tư công nghệ chế biến sâu, vốn còn thiếu nên rất cần sự hỗ trợ từ Hội. Riêng tại địa phương, HTX và công ty vẫn chưa có sự liên kết chặt chẽ".
Để đảm bảo tính hiệu quả, phát triển bền vững của mô hình theo hướng có lợi cho bà con nông dân, đồng chí Thào Xuân Sùng nhấn mạnh: "Đối với cấp Hội cơ sở, tới đây cần làm việc với địa phương, tổ chức thành lập Tổ chi hội nghề nghiệp 3 trong 1, liên kết chặt chẽ giữa nông dân, hợp tác xã và công ty. Trong đó, công ty là bà đỡ giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm, tăng chuỗi giá trị. Đồng thời, Hội sẽ tăng cường hỗ trợ cho đơn vị trong xúc tiến thương mại, kết nối với doanh nghiệp lớn chia sẻ về công nghệ".
Nếu cà phê cần 125 năm từ khi được đưa vào Việt Nam đến khi đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu thì mắc ca có thể “đi sau, về trước” để trở thành mặt hàng đứng đầu thế giới của Việt Nam trong thời gian ngắn hơn nhiều.
Sáng nay, 29/9, tại TP. Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị đánh giá kết quả 5 năm (2016-2020) phát triển ngành hàng mắc ca tại Việt Nam.
Các ý kiến tại Hội nghị đều khẳng định hiệu quả kinh tế và xã hội của cây mắc ca, là cây giúp xóa đói giảm nghèo. Có 2 vùng có thể phát triển ổn định cây mắc ca, loại cây có yêu cầu khắt khe về điều kiện khí hậu, độ ẩm, là vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, còn các vùng khác chưa cho kết quả tối ưu “ra hoa đậu quả” hoặc không đủ diện tích phát triển hàng hóa lớn.
Đối với vùng Tây Nguyên, có thể đưa cây mắc ca vào trồng xen vì đã có diện tích trồng cà phê và các loại cây khác, còn vùng Tây Bắc có thể trồng tập trung. Đây là cây thâm canh nên cần chú ý làm đồng bộ ngay từ đầu mới cho hiệu quả.
Theo ý kiến một số doanh nghiệp, khâu chế biến có ý nghĩa quan trọng, quyết định đầu ra của nông sản. Hiện nay chính sách thuế đối với chế biến nông sản còn bất cập, có nhiều mức thuế suất, từ 0%, 5% 10% nhưng chưa quy định rõ ràng việc áp mức nào, khiến doanh nghiệp lúng túng. Doanh nghiệp cũng mong muốn được hỗ trợ về tiếp cận thị trường.
Một số hộ trồng mắc ca tiêu biểu cho rằng, trong nông nghiệp, phải “được mùa, được giá” thì nông dân mới làm giàu được. Có ý kiến đề nghị việc thành lập hợp tác xã, ngân hàng tạo thuận lợi cho vay vốn khi vào mùa vụ.
Đại diện Hiệp hội Mắc ca Việt Nam khẳng định, sẽ bao tiêu sản phẩm cho bà con, không để tình trạng “được mùa, mất giá”. Hiệp hội cho rằng, cần có sự điều phối, hợp tác để tránh việc “tranh mua, tranh bán”, các doanh nghiệp tranh mua sản phẩm trong nước và hạ giá để tranh bán ra nước ngoài.
Về phản ánh của một nông dân tại cuộc đối thoại với Thủ tướng vào hôm qua, 28/9 rằng trồng mắc ca 7-8 năm mà không ra quả, đại diện Hiệp hội cho rằng, đây là trường hợp “giống giả, giống rởm” và khẳng định sẽ hỗ trợ hộ nông dân này bằng cách cho ghép tại chỗ trên cây thực sinh, sau 2 năm có thể ra quả.
Chuyên gia nông nghiệp Nguyễn Lân Hùng khẳng định, cây mắc ca không chỉ xóa đói giảm nghèo mà có thể làm giàu. Cây mắc ca có thể “vào được” các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Chúng ta còn nhiều đồi trống, đồi trọc, nếu đưa cây mắc ca vào thì không chỉ đưa miền núi tiến kịp mà có thể vượt miền xuôi, ông Nguyễn Lân Hùng tin tưởng. Việc sớm đưa cây mắc ca trở thành cây chủ lực trong 5-10 năm nữa là hoàn toàn khả thi.Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng biểu dương Bộ NN&PTNT, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, hộ nông dân đã mang lại thắng lợi bước đầu cho cây mắc ca, trong 5 năm qua đã tăng sản lượng gần 25 lần, đạt khoảng 7.000 tấn hạt, xuất khẩu trên 60%.
Thủ tướng cho rằng đây là một loại cây, loại quả có thể “đi sau, về trước” nếu biết cách làm. Thủ tướng lấy ví dụ về cây cà phê vào Việt Nam từ năm 1885. Năm 1902, người Pháp chính thức cho khảo nghiệm và đến năm 1975, Việt Nam mới có 13.000 ha cà phê.
Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, 1986, bằng việc đưa nhanh diện tích cà phê vào nông lâm trường, rồi tới những năm 1990, cây cà phê phát triển mạnh ở những hộ gia đình, đến nay, chúng ta có một ngành hàng cà phê với diện tích trên 680.000 ha, sản lượng 1,5 triệu tấn, xuất khẩu 3 tỷ USD.
Sau gần 125 năm, cây cà phê trở thành cây công nghiệp đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu. Vậy một câu hỏi đặt ra là, đối với cây mắc ca, với tinh thần “đi sau, về trước”, vào Việt Nam khảo nghiệm, phát triển và bước đầu đã thành công thì cần 10 năm hay 20 năm tới đây để có thể trở thành cây đứng đầu thế giới, Thủ tướng đặt vấn đề.
Thủ tướng yêu cầu ngành nông nghiệp, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam phải trả lời cho được những câu hỏi để làm sao mắc ca có thể phát triển xứng tầm với điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Cây mắc ca chứa đựng nhiều giá trị xã hội đặc biệt, không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế, vì cây mắc ca có thể vào vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng khó khăn, vùng đồng bào có thu nhập thấp, là cây xóa đói giảm nghèo và làm giàu. Cây mắc ca có ý nghĩa “quốc kế, dân sinh”, mang lại hiệu quả kinh tế và giải quyết rất nhiều việc làm cho người dân.
Thủ tướng Chính phủ mong muốn cây mắc ca có thể “đi sau, về trước”, nếu chúng ta biết ứng dụng khoa học công nghệ, liên kết chuỗi giá trị. Đến nay, không chỉ có thị trường, thu nhập mang về từ trồng cây mắc ca lên tới 250 triệu đồng/ha, gấp 3 lần cây cà phê.
Do đó, Thủ tướng nhấn mạnh, cần có quy hoạch vùng trồng, đi liền với quản lý giống, xử lý vấn đề vốn, đẩy mạnh chế biến sâu… Cần nghiên cứu thấu tình đạt lý, đừng để phát triển ồ ạt.
Mắc ca là sản phẩm tốt, cũng là nguyên liệu tốt cho các sản phẩm chế biến sâu khác như nguyên liệu mỹ phẩm cao cấp, socola nhân mắc ca, bột dinh dưỡng… Phải đi theo hướng này thì mới có giá trị gia tăng cao.
Theo Thủ tướng, 10 năm gần đây, diện tích mắc ca trên thế giới phát triển nhanh nhưng chỉ đạt 450.000 ha, sản lượng 200.000 tấn, chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ 1% tổng sản lượng hạt có dầu hiện nay. Thủ tướng đặt vấn đề, nếu giữ năng suất 4-5 tấn hạt/ha và giá bán như hiện nay, 6 đô la Australia/kg thì 1 ha cho thu hoạch 200-300 triệu đồng. Do đó, một câu hỏi đặt ra đối với Hiệp hội Mắc ca, cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà khoa học là tại sao không phát triển nhanh loại cây này.
Thủ tướng nhất trí cho rằng, phải tập trung quy hoạch phát triển cây mắc ca cho vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, còn các nơi khác xem xét cho thí điểm trước khi kết luận trồng đại trà.
Thủ tướng nhấn mạnh, dứt khoát phải phát triển công nghiệp chế biến, “càng sâu càng tốt”. Các ngành ngân hàng, tài chính cần dành nguồn vốn hỗ trợ trồng mắc ca cho người dân với những chính sách cụ thể về lãi suất và những ưu đãi cần thiết khác.
Phải quản lý đồng bộ về vấn đề phát triển cây mắc ca khi công bố quy hoạch, Thủ tướng nhất trí, có thể thành lập hợp tác xã phát triển cây mắc ca từ sản xuất cho đến chế biến.
Sau nhiều năm phát triển, căn cứ vào thực tế, kết quả của hội nghị và những vướng mắc hiện hành, Thủ tướng giao Bộ NN&PTNT cùng Hiệp hội Mắc ca và các địa phương xây dựng một chiến lược phát triển cây mắc ca ở Việt Nam. Bộ NN&PTNT chủ trì nghiên cứu xây dựng một nghị định về phát triển mắc ca, do hiện nay chính sách dành cho loại cây này đang phân tán.
Đó là nhận định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về loại cây trồng chiến lược của vùng Tây nguyên, cây Mắc ca. Theo đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, mắc ca là cây trồng đa mục tiêu, mang lại giá trị kinh tế cao nếu đẩy mạnh chế biến sâu, nhưng nhất thiết phải được đầu tư xây dựng thương hiệu cho sản phẩm này.
Sáng 29-9, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì hội nghị tổng kết phát triển cây mắc ca và định hướng giải pháp trong thời gian tới, và yêu cầu bộ ngành, địa phương tính toán phát triển cây trồng này phải đảm bảo lợi ích cho nông dân, người sản xuất.
Phát biểu đề dẫn, Thủ tướng cho rằng mắc ca là cây xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho nông dân Tây Nguyên, Tây Bắc, giúp thúc đẩy kinh tế tại vùng sâu vùng xa, giúp ổn định an ninh quốc phòng.
"Bần cùng sinh đạo tặc, khi cuộc sống người dân tốt lên thì ổn định an ninh, trật tự", Thủ tướng mở đầu.
"Tôi xem tivi có nông dân kể trồng 5-7ha mắc ca nhưng toàn lá, không có trái. Cái này phải xem lại chất lượng giống, quản lý nhà nước về giống ở đâu, quy hoạch trồng vùng nào cho hợp lý…
Có một điều rất thường xuyên ở Việt Nam là được mùa mất giá, được giá mất mùa. Hôm nay có Thủ tướng, có các bộ trưởng, lãnh đạo các địa phương ở đây, chúng ta phải quản lý quy hoạch, có tư duy phát triển.
Hiện nay diện tích đã rất tăng rồi, cần tăng bao nhiêu chứ không để tăng vô cùng tận. Chúng ta phải có tính toán về nhu cầu để mở rộng thị trường, đảm bảo quyền lợi cho người dân, người sản xuất", Thủ tướng chỉ đạo.
Theo Thủ tướng, sau hội nghị này, một phong trào trồng mắc ca có thể sẽ rộ lên đặt ra việc cung ứng vốn, những ngân hàng có uy tín, đảm bảo vốn ưu đãi để người dân có thể phát triển bền vững.
"Cây mắc ca có nguồn dinh dưỡng lớn nên nhu cầu rất cao, ngay cả trong nước chứ không chỉ xuất khẩu. Một vấn đề khác được đặt ra là chúng ta phải có chế biến, nâng tầm thương hiệu. Mắc ca xuất xứ từ Úc nhưng ở Việt Nam cần có chiến lược phát triển thương hiệu riêng, vươn ra toàn cầu", Thủ tướng nhắn nhủ.
Thủ tướng cũng đánh giá cây mắc ca là cây lâm sinh, phát triển độ che phủ, nhưng nếu phát triển cần có sự chung tay của các doanh nghiệp để phát triển một loại cây có lợi nhuận đồng thời góp phần bảo vệ môi trường, độ che phủ rừng...
Ông Hà Công Tuấn, thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, cho biết cây mắc ca đã được du nhập vào trồng ở Việt Nam từ năm 1994.
Quy hoạch phát triển cây mắc ca vùng Tây Bắc và Tây Nguyên đến năm 2020, tiềm năng phát triển đến năm 2030 đặt mục tiêu đến năm 2020 tổng diện tích trồng mắc ca tại vùng Tây Bắc và Tây Nguyên khoảng 10.000ha, tiềm năng phát triển đến năm 2030 khoảng 35.000ha.
Đến nay đã có nhiều giống mắc ca phát triển ở VN. Trong ảnh: một vườn ươm mắc ca tại Đắk Lắk - Ảnh: THẾ THẾ
Sau 5 năm thực hiện, đến nay cả nước có 23 tỉnh đã trồng cây mắc ca với diện tích 16.554ha, trong đó 9 tỉnh ở 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên trồng được 15.440ha, tăng 55% diện tích so với quy hoạch; 14 tỉnh khác chưa có trong quy hoạch đã trồng được 1.114ha.
Về sản lượng, năm 2020 các tỉnh dự kiến thu hoạch 6.570 tấn hạt tươi, tăng gần 24,5 lần so với năm 2015 (269 tấn). Với giá bán sản phẩm dạng hạt sấy khoảng 200 triệu đồng/tấn như hiện nay, ước tính 3.942 tấn hạt sấy sẽ mang lại giá trị 788 tỉ đồng (trong đó khoảng 60% xuất khẩu, còn lại phục vụ tiêu dùng trong nước).
Về giống, đến nay Bộ NN-PTNT đã công nhận được 13 giống mắc ca đưa vào sản xuất, trong đó có 3 giống quốc gia và 10 giống tiến bộ kỹ thuật.