Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2023

Người đưa nông sản từng bị đổ bỏ đi khắp thế giới

Chứng kiến cây nha đam bị đổ bỏ, ông Nguyễn Văn Thứ, quyết định thôi việc đang ổn định ở ngân hàng để tìm cách làm các chế phẩm từ nông sản.

Những năm 2008-2010, ông Nguyễn Văn Thứ lúc ấy là sếp một ngân hàng lớn ở TP HCM, đi thực địa tại các vùng quê với doanh nghiệp để thẩm định hợp đồng cho vay. Một lần tình cờ ra miền Trung, ông được người dân kể về sức hút của cây nha đam. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn, người trồng phải nhổ bỏ vì các công ty sản xuất ngừng thu mua.

"Nhìn những cây nha đam tươi tốt bị bỏ đi, tôi thấy xót xa nên hình thành ý tưởng chế biến sản phẩm từ chúng để mong người dân có đầu ra ổn định", ông Thứ nói.

Vốn là dân tài chính, ông cẩn trọng dành hai năm thu thập dữ liệu, tìm hiểu thị trường nha đam. Trong một lần đi công tác, trò chuyện với doanh nhân người Nhật, ông phát hiện ra người dân của họ ưa chuộng nha đam. Đầu năm 2011, ông quyết định tay ngang lập công ty riêng (Công ty thực phẩm G.C).

Với số vốn hai tỷ đồng từ tiền dành dụm và vay mượn ngân hàng, ông Thứ thuê nhà xưởng để dựng nhà máy sản xuất nha đam tại Khu công nghiệp Giang Điền (Đồng Nai). Ông chọn Phan Rang (Ninh Thuận) - vùng đất có khí hậu thuận lợi - để phát triển vùng nguyên liệu.

Ông Nguyễn Văn Thứ. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Ông Nguyễn Văn Thứ. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Là doanh nghiệp tiên phong trong sản xuất nha đam thành phẩm, ngay năm đầu, công ty ông đã có đơn đặt hàng từ các doanh nghiệp lớn trong nước như Vinamilk, Nutifood và các hãng nước giải khát.

Ông tiếp tục lên kế hoạch đưa nha đam đi khắp thế giới, trong đó Nhật Bản là thị trường đầu tiên được nhắm đến. Năm 2013, sau khi hoàn tất các quy trình theo tiêu chuẩn Nhật, công ty bắt đầu xuất cả trăm tấn thành phẩm sang thị trường này.

"Khi hàng được xuất đi, tôi mừng lắm. Nhưng ngày vui ngắn chưa tày gang, đối tác báo nha đam bị ngả màu vàng, tỷ lệ hủy khoảng 3%. Họ đòi trả hàng và yêu cầu đền đơn nhưng tôi đã thuyết phục và đưa giải pháp phân loại hàng trong kho", ông Thứ nhớ lại.

Để giải quyết nhanh, ông sang Nhật cùng đối tác phân loại hàng. Nhưng một tuần sau đó, đối tác tiếp tục báo tỷ lệ hàng bị ngả vàng tăng lên mức 5%. Lúc này, ông đành xin nhập lại lô hàng dù xác định sẽ mất trắng hơn nửa tỷ đồng.

Nhận hàng về, ông nghiên cứu lỗi sai, phát hiện quy trình của doanh nghiệp còn nhiều thiếu sót. Sau đó, ông nhờ các chuyên gia Nhật hướng dẫn xây dựng quy trình và chuyển giao các công nghệ cơ bản trong sản xuất nha đam nhằm đáp ứng đúng yêu cầu của thị trường khó tính này.

Thế nhưng, chẳng có con đường nào "trải toàn hoa hồng". Những lần xuất sau vẫn có một số lô bị trả về do có tổ kiến bên ngoài các thùng container. Theo quy định của đối tác Nhật, trong container hàng thực phẩm nếu phát hiện có vật lạ, côn trùng... dù không dính vào sản phẩm, họ vẫn phun khử khuẩn và trả hàng.

Năm 2014, ông quyết định xây nhà máy sản xuất nha đam tại Ninh Thuận với quy trình quản lý theo tiêu chuẩn Nhật Bản và khắt khe từng khâu. Trong đó, đối với hàng sản xuất thành phẩm, ông cho lưu kho một tuần để kiểm tra nhiều lần, sau đó đem đi soi chiếu để đảm bảo sản phẩm không có dính bất cứ sinh vật lạ nào. Với container đóng hàng, ông chọn các đối tác uy tín và yêu cầu họ cung cấp các vỏ sạch, chưa từng chở hóa chất hay vật phẩm gây mùi. Trước khi cho đóng hàng, toàn bộ container phải được kiểm tra và phun khử khuẩn sạch sẽ.

Ông cũng mở rộng vùng trồng nguyên liệu bằng cách đến từng nhà dân đặt hàng và hướng dẫn họ trồng nha đam theo quy trình mới, ít bón phân, không phun thuốc, tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt năng suất cao.

Thay vì thu hoạch nha đam hàng loạt theo mùa, ông Thứ chọn cách cắt tỉa dần. Lá nào đủ già sẽ thu hoạch trước, cứ như thế nguyên liệu có quanh năm. Nhờ thu hoạch đồng đều và ổn định, nha đam của công ty ông có chất lượng cao về độ giòn, ngọt và dinh dưỡng.

Công nhân đang làm việc tại nhà máy sản xuất nha đam ở Ninh Thuận. Ảnh: NVCC

Công nhân đang làm việc tại nhà máy sản xuất nha đam ở Ninh Thuận. Ảnh: NVCC

Sau 5 năm thiết lập quy trình sản xuất và vùng nguyên liệu, các đơn hàng xuất đi Nhật, Hàn Quốc của doanh nghiệp này có tỷ lệ gặp rủi ro gần như bằng 0. Nhờ vậy, nha đam của G.C Food ngày càng có nhiều đối tác quốc tế tìm đến đặt hàng. Trong đó, có những đối tác gắn bó với ông cả chục năm và hay gọi ông với cái tên thân mật là "Mr Nha Đam".

Dẫu vậy, khó khăn vẫn bủa vây công ty này khi năng lực sản xuất giới hạn. Bởi đây là sản phẩm ngách nên các công nghệ để phục vụ sản xuất không đại trà. Thậm chí, một vài máy móc trong khâu sản xuất nha đam không có trên thị trường.

Ông Thứ quyết định tuyển dụng đội kỹ sư chế tạo máy để nghiên cứu ra những công nghệ sản xuất phục vụ theo đúng nhu cầu của công ty như máy gọt vỏ, rửa lá, cắt hạt... với công suất gấp 6 lần so với hàng thô sơ ban đầu, giải quyết được áp lực về sản lượng.

Các công nghệ tại nhà máy do doanh nghiệp tự tạo hiện chiếm 50%, đáp ứng hầu hết yêu cầu khắt khe của đối tác. Công nghệ tự động hóa tại nhà máy đã dần giúp công ty giảm áp lực về lao động thời vụ. Nhiều hệ thống tự động hóa tới 70%.

Hiện sản phẩm từ nha đam của G.C Food đã có mặt ở 20 quốc gia trên thế giới với sản lượng 12.000-15.000 tấn một năm, trở thành doanh nghiệp sản xuất nha đam dẫn đầu thị trường Việt. Tại vùng đất Ninh Thuận, nha đam đang là cây trồng hiệu quả với lợi nhuận bình quân 300-400 triệu đồng một ha.

Ông Thành Lai Chu, Chủ nhiệm Hợp tác xã Sơn Phát cho biết trước đây, vùng đất Ninh Thuận trồng nông sản luôn trong tình trạng "được mùa mất giá" nên người dân tộc Chăm ở đây 80% là hộ nghèo. Vài năm gần đây, khi ông Thứ tới từng hộ dân động viên, hỗ trợ giống, hướng dẫn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, nông dân đã thoát nghèo. Hiện, hợp tác xã của ông đang trồng hai ha nha đam, mỗi năm cho doanh thu 1-1,4 tỷ đồng.

Sắp tới, hợp tác xã này cùng nhiều đơn vị khác sẽ mở rộng diện tích và kêu gọi thêm nông dân tham gia. "Chúng tôi không còn lo cảnh đổ bỏ hay được mùa mất giá vì sản phẩm làm ra được bao tiêu hết", ông Chu cho hay.

Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Ninh Thuận đánh giá, sự xuất hiện của G.C Food trên vùng đất nắng gió đã làm hồi sinh cây nha đam. Doanh nghiệp này cũng đã giúp cho hàng trăm công nhân, người lao động và các hộ trồng nha đam có nguồn thu nhập ổn định.

Trong chuyến thị sát doanh nghiệp hồi đầu năm, Phó thủ tướng Trần Lưu Quang đánh giá, G.C Food đang có một mô hình nông nghiệp bài bản. Ông tin với mô hình sản xuất làm chủ vùng nguyên liệu như hiện nay, công ty sẽ giúp tỉnh Ninh Thuận cất cánh.

"Trong nông nghiệp, bài toán đầu ra là quan trọng nhất nhưng đã được doanh nghiệp giải quyết. Để nông sản vươn xa hơn ở thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần bắt tay chặt hơn với nông dân sản xuất nông sản chất lượng cao", Phó thủ tướng Trần Lưu Quang nhìn nhận.

Theo báo cáo của Grand View Research (công ty tư vấn và nghiên cứu thị trường có trụ sở chính ở Mỹ), tốc độ tăng trưởng của thị trường nha đam trên thế giới giai đoạn 2019-2025 bình quân 7,6% một năm, đạt giá trị 2,67 tỷ USD năm 2025. Sự tăng trưởng này sẽ tiếp tục gia tăng khi nha đam ngày càng ứng dụng trong nhiều ngành như mỹ phẩm, thuốc.

Ngoài nha đam, G.C Food được khách hàng Nhật Bản đặt mua sản phẩm thạch dừa. Họ cử cả chuyên gia sang công ty để vấn tư vấn sản xuất. Năm 2016, GC Food mở thêm nhà máy Vinacoco (Đồng Nai) chuyên chế biến thạch dừa chất lượng cao với công suất khoảng 12.000 tấn thành phẩm một năm.

Với hai trụ cột chính trên, hàng năm công ty này đã thu về hàng trăm tỷ đồng. Theo báo cáo tài chính mới nhất, doanh thu công ty này năm 2022 tăng 27% so với cùng kỳ, đạt 433 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 35 tỷ đồng. Như vậy, mỗi tháng công ty thu gần 3 tỷ đồng tiền lãi từ hoạt động kinh doanh.

Cuối năm ngoái, GC Food đã lên sàn UpCOM với 26 triệu cổ phiếu. Ông Thứ đang nắm giữ 10,4 triệu cổ phiếu GCF, chiếm tỷ lệ 40% vốn điều lệ, trị giá hơn 162 tỷ đồng. Năm 2023, ông kỳ vọng công ty tiếp tục tăng trưởng 20% so với cùng kỳ dù kinh tế thế giới khó khăn.

"Tôi biết làm nông nghiệp chân chính khó khăn sẽ trải dài nhưng nếu biết tạo lợi thế và chọn ngách riêng cho mình đường đi sẽ bớt gập ghềnh", ông Thứ nói.

Thi Hà

Jackpot hơn 70 tỷ đồng có chủ

Công ty Xổ số điện toán Việt Nam (Vietlott) vừa xác định được một chủ nhân của giải Jackpot 71 tỷ đồng tại Cẩm Phả, Quảng Ninh.

Đây là giải thưởng cao nhất của sản phẩm Power 6/55 kỳ quay số mở thưởng tối 23/3. Giải thưởng 71 tỷ đồng này đã được tích luỹ hơn 1 tháng qua 19 kỳ quay số.

Theo Vietlott, tấm vé trúng thưởng có dãy số 04-07-22-33-40-49 và được phát hành ở điểm bán hàng tại 629 đường Trần Phú, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Như vậy, sau khi nộp thuế, người may mắn trúng thưởng có thể nhận về gần 64 tỷ đồng.

Bên cạnh giải cao nhất tại kỳ mở thưởng hôm nay, Vietlott cũng xác định được 13 khách hàng trúng giải trị giá 40 triệu đồng, 660 giải nhì 500.000 đồng. Tuy nhiên, giải Jackpot hơn 3,6 tỷ đồng không có người trúng thưởng.

Từ đầu năm, 5 jackpot giá trị lớn đã có chủ.

Qua hơn 6 năm kinh doanh, Vietlott đã ghi nhận hơn 90 triệu vé trúng giải với tổng số tiền trả thưởng hơn 15.277 tỷ đồng. Trong đó, các sản phẩm xổ số tự chọn Mega 6/45, Power 6/55 có hơn 300 vé trúng Jackpot tiền tỷ. Thời gian tới, Vietlott sẽ tiếp tục bổ sung các sản phẩm mới, thêm điểm bán hàng, phát triển kênh bán trên Internet.

Toshiba - từ tượng đài công nghệ đến kết cục bị mua lại

Trong hơn 140 năm, Toshiba tạo ra nhiều sản phẩm đầu tiên cho thế giới, trước khi bị nhấn chìm bởi những rắc rối liên tiếp kể từ 2015.

Hôm 23/3, Hội đồng Quản trị Toshiba chấp thuận đề nghị mua lại với giá 2.000 tỷ yen (15,3 tỷ USD) từ một nhóm doanh nghiệp, dẫn đầu bởi Japan Industrial Partners (JIP). Động thái này được kỳ vọng chấm dứt nhiều năm hỗn loạn tại Toshiba với hàng loạt bê bối, từ gian lận kế toán đến sai sót trong quản trị doanh nghiệp.

Toshiba là tập đoàn đa ngành của Nhật Bản, từng sản xuất mọi thứ, từ hàng điện tử tiêu dùng đến công nghệ năng lượng hạt nhân. Hãng gây dựng tên tuổi nhờ công nghệ tiên tiến trong nhiều sản phẩm, từ máy giặt đến tủ lạnh và sau này là TV màu đầu tiên trên thế giới. Toshiba hiện là một trong những thương hiệu điện tử tiêu dùng dễ nhận diện nhất trên toàn cầu.

Hai công ty tiền thân của Toshiba

Lịch sử của đại gia công nghệ này bắt đầu từ sự ra đời của 2 công ty độc lập. Đó là Tanaka Seizo-sho (Tanaka Engineering Works) và Hakunetsu-sha.

Năm 1873, Bộ Kỹ thuật Nhật Bản - cơ quan chịu trách nhiệm hiện đại hóa nước này - đề nghị Hisashige Tanaka phát triển thiết bị điện báo. Tanaka nổi tiếng từ khi còn trẻ, nhờ tạo ra nhiều sản phẩm như búp bê có thể cử động hay đồng hồ vĩnh cửu. Năm 1875, ông xây một nhà máy ở Tokyo để sản xuất các đơn hàng của chính phủ.

Đến năm 1882, công ty Tanaka Seizo-sho được thành lập. Năm 1893, họ đổi tên thành Shibaura Seisaku-sho.

Nhà máy của Tanaka tại Tokyo. Ảnh: Toshiba

Nhà máy của Tanaka tại Tokyo. Ảnh: Toshiba

Trong khi đó, năm 1878, Ichisuke Fujioka cũng tạo ra đèn hồ quang đầu tiên của Nhật Bản khi đang học tại Trường Kỹ thuật Hoàng gia (hiện là Khoa Kỹ thuật thuộc Đại học Tokyo), với sự hướng dẫn của một giáo sư thỉnh giảng nước ngoài. Khi đó, Nhật Bản còn phải nhập khẩu toàn bộ đèn điện.

Năm 1890, Fujioka thành lập công ty Hakunetsu-sha để sản xuất bóng đèn trong nước. Năm 1899, Hakunetsu-sha đổi tên thành Tokyo Denki.

Hai công ty này đi tiên phong trong việc phát triển các thiết bị điện tại Nhật Bản, như máy phát điện chạy bằng turbine bánh xe nước hay máy phát sóng. Lĩnh vực hoạt động của họ cũng liên tục mở rộng, sang các mảng như thiết bị y tế và radio. Ở thời kỳ này, họ đã ra mắt nhiều sản phẩm đầu tiên của Nhật Bản, như quạt điện, máy giặt, tủ lạnh.

Toshiba ra đời

Cùng là thành viên của một hiệp hội, Shibaura Engineering Works và Tokyo Electric Company hợp tác trong nhiều lĩnh vực và sở hữu chéo cổ phần của nhau. Năm 1939, hai công ty sáp nhập, lấy tên ghép là Tokyo Shibaura Denki. Tham vọng của họ là trở thành một trong những công ty sản xuất máy móc cơ khí hàng đầu thế giới.

Sau Đại chiến Thế giới II, Toshiba ban đầu tập trung vào máy móc hạng nặng, sau đó chuyển sang các thiết bị nhỏ gọn hơn. Họ mở nhiều chi nhánh bán hàng và bắt đầu xuất khẩu sang Đông Nam Á.

Kinh tế Nhật Bản bùng nổ vào thập niên 50, giúp các ngành máy móc công nghiệp, điện tử và truyền thông phát triển. Doanh thu và lợi nhuận của Toshiba cũng tăng mạnh. Toshiba sau đó mở rộng việc sản xuất và chi nhánh bán hàng trên thế giới. Thời gian này, họ ra mắt nhiều sản phẩm như lò vi sóng, TV màu, nồi cơm điện. Một số công nghệ còn đi đầu thế giới, như máy đọc zip code tự động, hay điều hòa inverter dùng trong gia đình.

TV màu đầu tiên của Nhật Bản. Ảnh: Toshiba

TV màu đầu tiên của Nhật Bản. Ảnh: Toshiba

Năm 1984, cái tên Toshiba ra đời, thay cho Tokyo Shibaura Denki. Đến thập niên 90, khi kinh tế Nhật Bản trì trệ, Toshiba phải áp dụng chiến lược "tập trung và lựa chọn" để tăng trưởng bền vững. Họ tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng và các lĩnh vực mới. Họ cũng phải hỗ trợ có chọn lọc với các mảng đã bão hòa hoặc đang đi xuống. Cuối cùng, Toshiba tập trung nguồn lực cho lĩnh vực bán dẫn và máy tính cá nhân (PC).

Gần một thập kỷ hỗn loạn

Vài năm gần đây, hoạt động kinh doanh của đại gia công nghệ gặp nhiều rắc rối. Năm 2015, họ bị phát hiện gian lận kế toán. Theo kết luận của một ủy ban điều tra độc lập khi đó, Toshiba đã phóng đại lợi nhuận lên thêm 151,8 tỷ yen (1,2 tỷ USD) trong 5 năm. Con số này gấp 3 lần dự tính ban đầu của hãng. Toshiba lỗ chủ yếu ở các mảng cốt lõi tại Trung Quốc, Hàn Quốc và phải chuyển sang tập trung vào cơ sở hạ tầng, điện hạt nhân. Sau khi điều chỉnh, Toshiba báo lỗ 37,8 tỷ yen năm 2014.

Kết quả điều tra cũng cho thấy công ty này quản trị kém và thường hạn chế nhân viên đặt câu hỏi với cấp trên. Ngay sau đó, hàng loạt lãnh đạo cao cấp của Toshiba, trong đó có CEO và phó chủ tịch đã phải từ chức. Toshiba bắt tay vào cải tổ, tái cấu trúc và cải thiện hình ảnh của công ty.

Tháng 6/2016, Midea Group (Trung Quốc) mua 80% cổ phần Toshiba Lifestyle Products & Services Corporation – mảng sản xuất đồ điện tử gia dụng – với giá 473 triệu USD. Midea được quyền sử dụng thương hiệu Toshiba cho các thiết bị này trên toàn cầu trong vòng 40 năm.

Cũng trong năm đó, Canon mua mảng thiết bị y tế của Toshiba - Toshiba Medical Systems Corporation. Hiện tại, mảng này có tên Canon Medical Systems Corporation.

Giới phân tích cho biết quá trình tái cấu trúc này lẽ ra đã phải thực hiện từ lâu. Toshiba là công ty sản xuất laptop đại trà đầu tiên trên thế giới năm 1985. Nhưng sau đó, mảng điện tử tiêu dùng của hãng dần đuối do cuộc cạnh tranh giá của các đối thủ châu Á.

Bên ngoài trụ sở của Toshiba tại Tokyo. Ảnh: Reuters

Bên ngoài trụ sở của Toshiba tại Tokyo. Ảnh: Reuters

Sau quá trình tái cơ cấu, Toshiba vẫn tiếp tục lún sâu vào khủng hoảng. Đến đầu năm 2017, hãng liên tục trễ hạn công bố báo cáo tài chính do những rắc rối tại mảng điện hạt nhân ở Mỹ. Lãnh đạo hãng này đã không nghiên cứu cẩn thận việc mua lại CB&I Stone & Webster. Thương vụ này được coi là giải pháp để Westinghouse (chi nhánh của Toshiba tại Mỹ) hoàn thành các dự án lò phản ứng bị trì hoãn khi đó.

Các dự án này của họ sau đó đều bị vượt dự toán và chậm tiến độ. Toshiba buộc phải xin phá sản Westinghouse và rao bán khi thiệt hại hơn 6 tỷ USD. Chủ tịch Toshiba Shigenori Shiga lúc đó cũng phải từ chức để nhận trách nhiệm.

Để bù đắp khoản lỗ khổng lồ trên bảng cân đối kế toán, Toshiba quyết định bán mảng chip nhớ. Thời điểm đó, Toshiba vẫn là hãng sản xuất chip nhớ NAND lớn nhì thế giới, chỉ sau Samsung Electronics. Cuối năm 2017, mảng này được bán cho quỹ đầu tư Bain Capital của Mỹ với giá 2.000 tỷ yen (18 tỷ USD).

Cũng trong năm đó, Toshiba huy động được 600 tỷ yen từ 60 nhà đầu tư nước sau đợt phát hành cổ phiếu khẩn cấp. Khoản tiền này cùng với tiền bán mảng chip nhớ đã giúp hãng không bị rút niêm yết trên sàn chứng khoán.

Thứ Năm, 23 tháng 3, 2023

Ăn Lẩu Cầm Vàng Thụy Sỹ Mang Về! - Người Việt Ở Mỹ Ùn Ùn Kéo Đến Khoa Pug Hot Pot Gây Tắc Nghẽn!

Cuộc Sống Thượng Lưu Của Giới Siêu Giàu Hồng Kông | Giới Thượng Lưu

QUẺ 2: THUẦN KHÔN

 Dưới đây là lời giảng Quẻ Thuần Khôn theo sách "Kinh dịch - Đạo của người quân tử" của học giả Nguyễn Hiến Lê

Thuần Khôn

:::::: Thuần Khôn (坤 kūn)

Quẻ Thuần Khôn, còn gọi là quẻ Khôn (坤 kūn), tức Đất là quẻ số 02 trong Kinh Dịch.

* Nội quái là: ☷ (::: 坤 kūn) Khôn = (地) Đất.

* Ngoại quái là: ☷ (::: 坤 kūn) Khôn = (地) Đất.

Giải nghĩa: Thuận dã. Nhu thuận. Thuận tòng, mềm dẻo, theo đường mà được lợi, hòa theo lẽ, chịu lấy. Nguyên Hanh Lợi Trinh chi tượng.

坤 : 元, 亨, 利, 牝 馬 之 貞 . 君 子 有 攸 往 . 先 迷 後 得. 主 利 . 西 南 得 朋 . 東 北 喪 朋 . 安 貞 吉 .

Khôn: Nguyên, hanh, lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An trinh, cát.

Dịch: Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. chỉ cốt lợi ích cho vạn vật. đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng giữ đức bên vững, tốt.

Giảng: Quẻ Càn gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm. Càn “tượng” (1) trời thì không “tượng” đất. Càn cương kiện thì Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn; chỉ khác Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn; cho nên các đức nguyên, hanh, lợi, Khôn có đủ như Càn; chỉ riêng về đức trinh (chính và bền) thì Khôn hơi khác: tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng con ngựa cái để “tượng” Không: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa đực.

Cũng vì Khôn có đức thuận, cho nên khởi xướng phải là Càn, Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người quân tử nếu ở vào địa vị khôn, phải tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn, chờ người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất, chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn): “Quân tử dĩ tự cường bất tức” là bài học rút ra từ quẻ Càn.

Chu công còn khuyên đi về phía Tây Nam vì trên Hậu thiên bát quái Khôn ở phía Tây nam (có học giả hiểu là phía Tây và phía Nam) thì được bạn (hoặc được tiền bạc, vì chữ “bằng” cò thể hiểu là bằng hữu, cũng có thể hiểu là bằng bối: bối là vỏ sò ngao xưa dùng làm tiền, 1 bằng là 2 hoặc 10 bối) nếu đi về phía Đông bắc thuộc dương thì mất bạn (hoặc tiền bạc).

Được quẻ này, nến theo những lời khuyên đó mà an lòng, giữ đức bền vững thì tốt.

Câu “Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc” có người hiểu là: “Người quân tử có đi đâu thì trước lầm sau đúng”, mà không giảng tại sao lại như vậy. Hiểu như chúng tôi ở trên thì có lý hơn, làm rõ cái đạo “thuận tòng thì tốt” của Khôn. Chữ “du” ở trong kinh Dịch thường dùng như chữ “sở”

Tác giả Văn Ngôn không giảng gì thêm chỉ tóm tắt lại: Đạo Khôn là thuận theo trời mà tiến hành không ngừng.

Hào từ:

1) 初 六: 履 霜, 堅 冰 至

Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí.

Giảng: Đây là hào âm đầu tiên trong quẻ. Âm thì lạnh, nên Chu Công ví với sương lạnh mới kết lại thì thành sương, rồi lần lần, lạnh hơn, nước sẽ đông lại thành băng. Hao này có hàm cái ý phải thận trọng từ bước đầu. Tiểu tượng truyện không giảng thêm, còn Văn ngôn truyện thì khuyên ta:

“Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc (để đến đời sau); nhà nào tích lũy điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). Như việc bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên do không ở trong một buổi sớm chiều; tất dần dà có từ lâu rồi, mà người ta không biết lo toan từ sớm vậy” (tích thiện chí gia tất hữu dư khách, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương: Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triều nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ. Do biện chi bất tảo biện dã).”

Chúng ta để ý: hào 1 quẻ Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu đức luyện tài chờ thời; còn hào 1 quẻ Khôn này. Dịch răn phải đề phòng từ đầu, nếu không sẽ gặp họa; như vậy Dịch tin ở Dương hơn đạo Âm, trọng Dương hơn Âm .

2) 六 二: 直 方 大, 不 習 无 不 利

Lục nhị: trực phương đại, bất tập vô bất lợi.

Dịch: Hào 2, âm (Đức của mình) thẳng, vuông, lớn thì chẳng phải học tập mà cũng không có gì là không lợi.

Giảng: Hào này rất tốt: thể là âm, vị cũng là âm ( hào chẳn), thế là đắc chính, cho nên bảo là có đức thẳng (trực) nó lại đắc trung, (ở giữa nội quái) cho nên bảo là vuông vức (phương) (1) nó lại ở trong quẻ Khôn, có qui mô lớn, nên chẳng cần học tập khó khăn mà hành động nào cũng hợp đạo lý.

Văn ngôn giảng thêm: người quân tử muốn như hào 2 này mà ngay thẳng ở trong lòng thì phải có đức kinh; vuông ở ngòai (khi tiếp vật) thì phải có đức nghĩa. Có hai đức kính, nghĩa đó thì sẽ không cô lập (?). Nguyên văn: “bất cô”, Chu Hi giảng là to lớn, tức có ý cho rằng: Kính thì “trực”, nghĩa thì “phương”. Có đủ kính và phương thì là “đại”. Chúng tôi hiểu theo câu: Đức bất cô, tất hữu lân” (người có đức thì không lẻ loi, tất có bạn cũng trọng đạo đức như mình (bạn đây là hào 5, ứng với 2) không biết có đúng không.

3) 六 三: 含 章 可 貞, 或 從 王 事, 无 成 有 終

Lục tam: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.

Dịch: Hào 3, âm: Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững được, có khi theo người trên mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả.

Giảng: Hào 3 là âm mà ở vào địa vị dương (lẻ), như vậy là không chính, nhưng nó vốn có đức nhu thuận của quẻ Khôn, thêm được tính cương kiện của vị dương, thì lại là tốt (đây là lẽ biến hóa của Dịch).

Nó đứng trên cùng nội quái, tức có thể có chức phận, cho nên bảo là có lúc theo bề trên làm việc nước. Nhưng nó nên nhũn, nhu thuận (đức của Khôn) chỉ làm trọn nghĩa vụ mà đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả.

Văn ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo người trên làm việc mà không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của Đất, của vợ, của bề tôi (địa đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người trên.

4) 六 四: 括 囊, 无 咎, 无 譽.

Lục cửu: quát nang, vô cữu, vô dự.

Dịch: Hào 4 âm: như cái túi thắt miệng lại, (kín đáo giữ gìn) thì khỏi tội lỗi mà cũng không danh dự.

Giảng: hào 4 là âm ở địa vị âm trong một quẻ tòan âm, mà không đắc trung như hào 2, ví như người quá nhu thuận, vô tài, không có chút cương cường nào. Đã vậy, mà ở sát hào 5, tức là có địa vị một đại thần, tài thấp mà địa vị cao, nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân, mặc dầu không có danh dự gì.

Hào 4 quẻ Càn cũng ở địa vị như hào này, nhưng là dương, có tài năng, nên còn có thể bay nhảy, tiến được (hoặc dược), khác nhau ở chỗ đó.

Văn ngôn cho hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương” (vì không có chút dương nào cả từ bản thể tới vị), như vậy là âm dương cách tuyệt nhau, trời đất không giao nhau (thiên địa bế), lúc đó hiền nhân nên ở ẩn (hiền nhân ẩn), rất thận trọng thì không bị tai họa.

5) 六 五: 黄 裳, 元 吉.

Lục ngũ: hoàng thường, nguyên cát.

Dịch: hào 5, âm: như cái xiêm màu vàng, lớn, tốt (rất tốt).

Giảng Hào 5 là hào chí tôn trong quẻ , đắc trung. Tuy nó không đắc chính vì là âm mà ở vị dương; nhưng ở trong quẻ Khôn,như vậy lại tốt vì có chút cương, không thuần âm, thuần nhu, như hào 4, tức là có tài, nhưng vẫn là Khiêm nhu (vì là âm). Âm còn hàm ý văn vẻ nữa, trái với dương cương kiện là võ. Cho nên Chu Công cho là hào này rất tốt, và “tượng” bằng cái xiêm màu vàng. Vàng là màu của đất, của trung ương (hàm ý không thái quá, không bất cập) của vàng, đồng, nên người Trung Hoa thời xưa rất quí, chỉ vua chúa mới được dùng màu vàng trong y phục. xiêm là một bộ phận y phục ở phía dưới, đẹp đẽ, hàm cái nghĩa khiêm hạ, không tự tôn.

Văn ngôn bàn thêm: người quân tử có đức trung (màu vàng) ở trong mà thông suốt đạo lý, ở ngôi cao mà vẫn khiêm, tự coi mình ở thể dưới (như cái xiêm); như vậy là chất tốt đẹp ở bên trong mà phát ra bề ngòai, làm nên sự nghiệp lớn, tốt đẹp như vậy là cùng cực.

Như vậy Dịch tuy coi âm (Khôn) không quí bằng dương (Càn), nhưng có lúc coi trọng đức khiêm nhu, mà Dịch cho là đức của người văn minh. Tinh thần đó là tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Hào 5 quẻ Càn, Chu Công cho là đại quí (long phi tại thiên) nhưng chỉ bảo: “Lợi kiến đại nhân”; còn hào 5 quẻ không thì khen là”nguyên cát” hào tốt nhất trong Kinh Dịch, là có nghĩa vậy.

6) 六 上: 龍 戰 于 野, 其 血 玄 黄.

Lục thượng: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng.

Dịch: Hào trên cùng âm : Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng.

Giảng: hào này âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ túc nhau, nhưng bản thể vẫn là ngược nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương cũng vậy ( hào 6 quẻ Càn) thì hai bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo đến đó là cùng rồi. cũng vẫn cái nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ Càn.

Văn ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền hoàng”: là sắc của trời đất, âm dương .

Cao Hanh ngờ rằng hai chữ đó [玄 黄] thời xưa dùng như hai chữ [ ] (vì đọc như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không rõ thuyết nào đúng, nhưng đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên

7) 用 六: 利 永 貞.

Dụng lục: Lợi vĩnh trinh.

Dịch: (nghĩa từng chữ) dùng hào âm: phải (nên) lâu dài, chính và bền.

Giảng: Hai chữ “dụng lục” ở đây cũng như hai chữ “dụng cửu” ở quẻ Càn rất tối nghĩa, và câu 7 này mỗi nhà giảng một khác. Dưới đây tôi chỉ đưa ra ba thuyết:

• Thuyết của tiên nho: sáu hào âm biến ra sáu hào dương, tức Thuần khôn biến thành Thuần Càn, như một người nhu nhược biến ra một người cương cường, cho nên bảo là: phải (nên) lâu dài, chính và bền.

• Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi.

• Thuyết của Tào Thăng: Khôn thuận theo Càn cho nên gọi là lợi; Không động thì mở ra, tĩnh thì đóng lại. Cho nên bảo chính và bền, ý muốn nói: đạo Khôn đơn giản mà tác tác thành vạn vật.

Chú ý: chỉ hai quẻ Càn và Khôn là có Văn ngôn truyện, Dụng Cửu và dụng Lục; từ quẻ sau trở đi không còn những tiết đó nữa.

QUẺ 40: LÔI THỦY GIẢI

 

QUẺ 40: LÔI THỦY GIẢI

Dưới đây là lời giảng Quẻ Lôi Thủy Giải theo sách "Kinh dịch - Đạo của người quân tử" của học giả Nguyễn Hiến Lê

Lôi Thủy Giải

:|:|:: Lôi Thủy Giải (解 xiè)

Quẻ Lôi Thủy Giải, đồ hình :|:|:: còn gọi là quẻ Giải (解 xie4), là quẻ thứ 40 trong Kinh Dịch.

* Nội quái là ☵ (:|: 坎 kan3) Khảm hay Nước (水).

* Ngoại quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn hay Sấm (雷).

Giải nghĩa: Tán dã. Nơi nơi. Làm cho tan đi, như làm tan sự nguy hiểm, giải phóng, giải tán, loan truyền, tuyên truyền, phân phát, lưu thông, ban rải, ân xá. Lôi vũ tác giải chi tượng: tượng sấm động mưa bay.

Không thể bị nạn hoài được, thế nào cũng tới lúc giải nạn, vì vậy sau quẻ Kiển tới quẻ Giải. Giải là cởi, tan.

Thoán từ

解: 利西南, 无所往, 其來復吉. 有攸往, 夙, 吉.

Giải: Lợi Tây nam, vô sở vãng, kì lai phục, cát. Hữu du vãng, túc, cát.

Dịch: tan cởi: đi về Tây nam thì lợi, đừng đa sự, cứ khôi phục lại như cũ thì tốt. Nhưng cũng có điều đáng làm, làm cho chóng thì tốt.

Giảng: Tượng quẻ là âm dương giao hoà với nhau, sấm (Chấn) động và mưa (Khảm) đổ, bao nhiêu khí u uất tan hết, cho nên gọi là Giải. Cũng có thể giảng: Hiểm (Khảm) sinh ra nạn, nhờ động (Chấn) mà thoát nạn nên gọi là Giải.

Khi mọi hoạn nạn đã tan rồi, thì dân chỉ mong an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị (Tây Nam thuộc Khôn là đường lối khoan đại, bình dị); đừng đa sự, cứ khôi phục trật tự cũ cũng đủ tốt rồi. Tuy nhiên cũng phải trừ những tệ đã gây ra những hoạn nạn trước kia, cũng phải sửa đổi cho sự bình trị được lâu dài, công việc đó nên làm cho mau xong (vẫn là ý đừng đa sự) thì tốt.

Đại tượng truyện khuyên sau khi giải nạn rồi, nên tha tội cho những kẻ lầm lỗi trước, nếu không tha được thì cũng nên giảm án cho nhẹ đi (quân tử dĩ xá quá, hựu tội).

Hào từ

1. 初六: 无咎.

Sơ lục: Vô cữu.

Dịch: Hào 1, âm: không lỗi.

Giảng: Mới bắt đầu vào thời cởi mở, hào này âm nhu, mà có dương cương (hào 4) ở trên ứng, cứ lặng lẽ ở yên không sinh sự thì không có lỗi gì cả.

2. 九二: 田獲三狐, 得黃矢, 貞, 吉.

Cửu nhị: Điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ, trinh, cát.

Dịch: Hào 2, dương: Đi săn được ba con cáo, được mũi tên màu vàng, giữ đạo chính thì tốt.

Giảng: Không ai biết “ba con cáo” ám chỉ những hào nào, Chu Hi ngỡ là hào âm 1, 3 và trên cùng (trừ hào âm 5). Chỉ có thể đoán ý rằng: hào này dương cương, ứng với hào 5 âm, vị nguyên thủ, cho nên thế khá mạnh, có trách nhiệm với quốc gia trừ bọn tiểu nhân (ba con cáo), mà không mất mũi tên màu vàng (tức đạo trung trực – vàng là màu của trung ương, mũi tên tượng trưng cho việc ngay thẳng: trực). Hào từ khuyên phải giữ vững (trinh) đạo trung đó thì mới tốt.

3. 六三: 負且乘, 致寇至.貞吝.

Lục tam: Phụ thả thừa, trí khấu chí; trinh lận.

Dịch: Hào 3, âm: kẻ mang đội đồ vật mà lại ngồi xe là xui bọn cướp tới, nếu cứ giữ cái thói đó (trinh ở đây nghĩa khác trinh ở hào trên ) thì phải hối hận.

Giảng: Hào này âm nhu, bất chính, bất trung mà ở trên cùng nội quái, tức như kẻ tiểu nhân ở ngôi cao, không khác kẻ vừa mang đội (người nghèo) mà lại ngất ngưởng ngồi xe (như một người sang trọng), chỉ tổ xui cướp tới cướp đồ của mình thôi.

Theo Hệ từ thượng truyện, Chương VIII, Khổng tử bàn rộng ra như sau: ‘người thường mà ngồi xe của người sang là xui kẻ cướp tới cướp đoạt của mình. Người trên khinh nhờn kẻ dưới tàn bạo thì kẻ cướp (giặc) tìm cách đánh đuổi ngay. Giấu cất không kín đáo là dạy cho bọn gian vào lấy của nhà mình; trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn gian dâm tới hiếp mình”.

4. 九四: 解而拇, 朋至斯孚.

Cửu tứ: Giải nhi mẫu, bằng chí tư phu.

Dịch: Hào 4, dương: Bỏ ngón chân cái của anh đi (chữ nhi ở đây là đại danh từ) thì bạn (tốt) mới tới và tin cậy anh.

Giảng: Hào này là dương, tuy không chính (vì ở ngôi âm) nhưng ở gần hào 5, vị nguyên thủ, là có địa vị cao. Nó ứng với hào 1 âm, tiểu nhân ở dưới, nên bị nhiều người chê, nếu nó biết tuyệt giao với hào 1 (tượng trưng bằng ngón chân cái, ở chỗ thấp nhất trong cơ thể) thì người tốt mới vui tới mà tin cậy ở nó.

5. 六五: 君子維有解, 吉.有孚于小人.

Lục ngũ: Quân tử duy hữu giải, cát; hữu phu vu tiểu nhân

Dịch: Hào 5, âm: người quân tử phải giải tán bọn tiểu nhân đi thì mới tốt; cứ xem bọn tiểu nhân có lui đi không thì mới biết chắc được mình có quân tử hay không.

Giảng: hào này âm nhu, chưa chắc đã là quân tử, nhưng ở địa vị chí tôn, làm chủ quẻ, cho nên Hào từ khuyên phải tuyệt giao với bọn tiểu nhân (tức ba hào âm kia) thì mới tỏ rằng mình là quân tử được.

6. 上六: 公用射隼于高墉之上.獲之, 无不利.

Thượng lục: Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng. Hoạch chi, vô bất lợi.

Dịch: Hào trên cùng, âm: Một vị công nhắm bắn con chim chuẩn ở trên bức tường cao. Bắn được, không gì là không lợi.

Giảng: đã tới lúc cuối cùng thời giải, nội loạn đã an rồi, nếu còn kẻ ở ngoài dám gây loạn (tượng trưng là con chim chuẩn ở trên bức tường cao). Thì cứ diệt đi, sẽ thành công. Vị “công” ở đây là hào trên cùng.

Theo Hệ từ hạ truyện, Khổng tử giải thích hào này như sau: “chuẩn là một loài chim, cung tên là đồ dùng, kẻ bắn là người. Người quân tử chứa sẳn đồ dùng (tài, đức) ở trong mình, đợi thời mà hoạt động thì có gì chẳng lợi?

***

Ý nghĩa quẻ này ở trong Thoán từ: dẹp loạn xong thì nên khoan hồng với kẻ lỡ lỗi lầm, đừng đa sự, chỉ cần khôi phục trật tự cũ, và củng cố nó bằng một số công việc, nhưng phải làm cho mau để khỏi phiền nhiễu dân.

Hào 3 cũng có một lời khuyên nên nhớ: giấu cất không kín đáo là dạy cho kẻ trộm vào lấy của nhà mình; trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn tà dâm tới hiếp mình. (Mạn tàng hối đạo, dã dung hối dâm).

QUẺ 15: ĐỊA SƠN KHIÊM

 

Dưới đây là lời giảng Quẻ Địa Sơn Khiêm theo sách "Kinh dịch - Đạo của người quân tử" của học giả Nguyễn Hiến Lê

Địa Sơn Khiêm

::|::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān)

Quẻ Địa Sơn Khiêm, đồ hình ::|::: còn gọi là quẻ Khiêm (謙 qian1), là quẻ thứ 15 trong Kinh Dịch.

* Nội quái là ☶ (::| 艮 gen4) Cấn hay Núi (山).

* Ngoại quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地).

Giải nghĩa: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang.

Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm.

Thoán từ

謙: 亨, 君子有終.

Khiêm: Hanh, quân tử hữu chung.

Dịch: Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối.

Giảng: Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông.

Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ.

Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người .

Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.

Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí).

Hào từ

初六: 謙謙君子, 用涉大川, 吉.

Sơ lục: khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát.

Dịch: Hào 1, âm – Nhún nhường, nhún nhường, người quân tử dùng đức ấy để qua sông lớn thì tốt.

Giảng: Hào này âm như mà lại ở dưới cùng, thật là khiêm hạ, dầu gặp hoàn cảnh hiểm nguy nào cũng vượt được.

Tiểu tượng truyện khuyên người quân tử trau giồi tư cách mình bằng đức khiêm hạ, (Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục)

2 六二: 鳴謙, 貞吉.

Lục nhị: Minh khiêm, trinh cát.

Dịch: Hào 2, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức khiêm, nếu chính đáng thì tốt.

Giảng: hào này nhu thuận, đắc trung, đắc chính, rất tốt, cho nên bảo là tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm. Nhưng ngại tiếng tăm lừng lẫy thì dễ ham danh, mà hóa ra quá khiêm đến mức giả nhún nhường hoặc nịnh bợ), nên Hào từ khuyên phải giữ đức trung, chính (trinh) của hào 2 thì mới tốt.

3. 九三: 勞謙, 君子 有終, 吉.

Cửu tam: Lao khiêm, quân tử hữu chung, cát.

Dịch: Hào 3, dương : Khó nhọc (có công lao) mà nhún nhường, người quân tử giữ được trọn vẹn, tốt.

Giảng: hào này có đức dương cương, làm chủ cả quẻ, năm hào âm đều trông cậy vào, như người có địa vị (ở trên cùng nội quái), có tài năng (hào dương ) mà khiêm tốn (vì ở trong quẻ Khiêm), không khoe công, nên càng được mọi người phục, mà giữ được địa vị, đức độ tới cùng.

Theo Hệ từ thượng truyện chương VIII, Khổng tử đọc hào này, giảng thêm: “Khó nhọc mà không khoe khoang, có công với đời mà chẳng nhận là ân đức, đức như vậy là cực dày”.

4. 六四: 无不利, 撝謙.

Lục tứ: vô bất lợi, huy khiêm.

Dịch: Hào 4, âm: Phát huy sự nhún nhường thì không gì là không lợi.

Giảng: Hào này nhu thuận mà đắc chính, tốt đấy, nhưng vì ở trên hào 3 là người có công lao, mà lại ở gần hào 5, là vua, nên càng phải phát huy thêm đức khiêm, mới tránh được mọi khó khăn mà không gì là không lợi.

5. 六五: 不富以其鄰, 利用侵伐, 无不利.

Lục ngũ: Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt, vô bất lợi.

Dịch: Hào 5, âm: chẳng cần giàu (có thế lực) mà thâu phục đựơc láng giềng (được nhiều người theo); nhưng phải có chút uy, chinh phạt kẻ nào chưa phục mình thì mới không gì là không lợi.

Giảng: Hào này âm nhu, đắc trung, ở địa vị chí tôn, nên tự nhiên thâu phục được nhiều người, nhưng nếu nhu quá, thiếu uy thì không phải là tư cách một ông vua, nên Hào từ khuyên nên dùng uy võ đối với kẻ nào chưa phục mình. Hào này có thể dùng uy được vì ở vị dương (lẻ).

6. 上六: 鳴謙, 利用行師, 征邑國.

Thượng lục: Minh khiêm, lợi dụng hành sư, chính ấp quốc.

Dịch: Hào trên cùng, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm, được nhiều người theo có thể lợi dụng điều đó mà ra quân, nhưng cũng chỉ trị được những kẻ trong ấp của mình không phục mình thôi.

Giảng: hào này thể nhu, vị nhu, ở vào thời cuối cùng quẻ Khiêm, cho nên khiêm nhu cùng vực, tiếng tăm lừng lẫy, nhiều người theo đấy; nhân đó mà có thể ra quân chinh phạt những kẻ không theo mình, nhưng vì tài kém, nên chỉ trị được những kẻ trong ấp mình thôi, chưa thỏa chí được.

***

Quẻ này hào nào cũng tốt không nhiều thì ít, không kém quẻ Đại hữu bao nhiêu.

Đa số các triết gia Trung Hoa rất đề cao đức Khiêm, nhất là Khổng tử và Lão tử, vì họ cho rằng luật trời hễ đầy quá thì vơi, trong khi đầy phải nghĩ tới lúc sẽ vơi, phải khiêm hạ, đừng tự phụ.

Không thể dẫn hết những châm ngôn của Trung Hoa về đức khiêm được; trong quẻ này chúng ta đã thấy được mấy câu như Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm, nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm, khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục. Trong Đạo đức kinh, cũng rất nhiều câu, như: Hậu kỳ thân nhi thân tiên; Qúi dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ; Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi: Bất cảm vi thiên hạ tiên.

Nhưng khiêm nhu của Lão tử có vẻ triệt để, tuyệt nhiên không tranh hơn với ai, mà khiêm nhu trong Dịch thì không thái quá, vẫn trọng đức trung (hào 2).