Thứ Hai, 13 tháng 2, 2023

CẤU TẠO CON NGƯỜI – PHẦN 14 – THỂ DĨ THÁI (1)

 

Tổng quan

Trong phần này chúng ta nghiên cứu thể dĩ thái (etheric body). Từ etheric body được các nhà Thông Thiên Học Việt Nam dịch là thể phách. Phách (魄)là từ Hán Việt, bao gồm 2 từ Bạch  (trắng) và Quỷ 鬼 (ma quỷ), có nghĩa là quỷ trắng. Từ điển Hán Việt giải thích như sau:

① Vía. Phàm vật gì tinh khí hết kiệt, chỉ còn hình chất lại gọi là phách.

Ta thấy từ này trong cụm từ thất hồn lạc phách (hết hồn hết vía), hồn phi phách tán (hồn bay phách tán).

Vía là từ thuần Việt, chính là phách trong tiếng Hán Việt. Nhưng các từ thể phách và thể vía đã được các nhà Thông Thiên Học Việt Nam sử dụng từ thuở ban đầu để chỉ etheric body và astral body. Trong hội Thông Thiên Học thế giới cũng có sự lẫn lộn trong các thuật ngữ trong thuở ban đầu. Bà Blavatsky dùng từ astral body không phải để chỉ thể cảm dục mà thôi, mà còn chỉ cái mà ta hiểu là thể dĩ thái (etheric body). Chỉ sau này Ông C.W. Leadbeater và bà Annie Besant mới tách biệt gọi 2 thể đó là etheric body và astral body. Chân sư DK có nhắc đến điều này trong quyển Telepathy and the Etheric Vehicle. Sau đây là trích dẫn khá dài từ sách củA đức DK nói về điều này. Cũng xin lưu ý các bạn qui ước màu sắc trong bài viết như thường lệ, nghĩa là các trích dẫn sẽ có màu xanh lá, phần giải thích của người viết sẽ có màu đen.

Một trong các bổn phận chính của các đạo sinh huyền linh học ngày nay là chứng minh sự thực về thể dĩ thái; khoa học hiện đại đã đang chứng tỏ điều đó vì các nghiên cứu của khoa học hiện nay đã dẫn nó đi vào lĩnh vực của năng lượng. Khoa điện-trị liệu (electro-theraphy) với nhận thức ngày càng tăng rằng con người có bản chất là điện, và nhận thức rằng ngay cả nguyên tử, dù bề ngoài là các đối tượng vô tri giác, lại là một thực thể rung động linh hoạt, chứng minh cho quan điểm huyền linh học này. Nói chung, khoa học đã đi trước huyền bí học ở sự thừa nhận của nó về năng lượng như là yếu tố vượt trội trong mọi biểu lộ của hình hài. Các nhà Thông Thiên Học và những người nghiên cứu khác tự hào về việc họ vượt trước tư tưởng của nhân loại, nhưng không phải thế. H.P. Blavtasky, một điểm đạo đồ cao cấp, có trình bày các quan điểm đi trước khoa học, nhưng điều này không đúng với những diễn giả của Thông Thiên Học. Sự kiện tất cả các hình thức biểu lộ là các hình thức năng lượng, và hình hài đích thực của con người cũng không là ngoại lệ, là món quà của khoa học, chứ không phải của huyền linh học, dành cho nhân loại. Việc chứng minh rằng ánh sáng và vật chất là các thuật ngữ đồng nghĩa cũng là một kết luận của khoa học. Các nhà huyền bí học luôn luôn biết rõ điều này, nhưng các trình bày tự tin [141] và ngốc nghếch của họ về chân lý đã gây bất lợi rất nhiều cho Thánh Đoàn. Rất thường các Chân Sư lên án phương pháp của các nhà Thông Thiên Học và các nhóm huyền bí khác. Khi cách trình bày mới về giáo lý huyền môn xuất hiện nhờ hoạt động gợi cảm hứng của H.P.B., thì một số (và số này ngày càng đông hơn theo thời gian) các thành viên Thông Thiên Học trình bày giáo lý huyền môn theo cách thức nó bóp méo giáo lý đích thực và xúc phạm nhận thức trí tuệ của đám đông những người tìm hiểu và sáng suốt. Giáo huấn về thể dĩ thái là một bằng chứng của việc đó. H.P.B. chịu trách nhiệm phần lớn, vì dùng thuật ngữ “astral” để chỉ một số lớn kiến thức liên quan đến etheric (dĩ thái) cũng như astral (cảm dục). Điều này do bởi sự kiện rằng thể cảm dục trong một vài thế hệ nữa (nói một cách tương đối) sẽ chịu số phận biến mất, và cụ thể ở H.P.B. nó đã không tồn tại, do bởi mức tiến hóa cao mà vị đệ tử này đạt đến. [Telepathy and the Etheric Vehicle trang 140-1]

One of the main obligations of occult students today is to testify to the fact of the etheric body; modern science is already thus testifying because its researches have now landed it in the realm of energy. Electro-therapy, the growing recognition that man is electrical in nature, and the realisation that even the atom in apparently inanimate objects is a living vibrant entity substantiate this occult point of view. Generally speaking, science has preceded esotericism in its recognition of energy as a dominant factor in all form expression. Theosophists and others pride themselves on being ahead of human thinking, but such is not the case. H.P.B., an initiate of high standing, presented views ahead of science, but that does not apply to the exponents of the theosophical teaching. The fact of all manifested forms being forms of energy, and that the true human form is no exception, is the gift of science to humanity and not the gift of occultism. The demonstration that light and matter are synonymous terms is also a scientific conclusion. Esotericists have always known this, but their aggressive and foolish presentations of the truth have greatly handicapped the Hierarchy. Frequently the Masters have deplored the technique of the theosophists and other occult groups. When the new presentation of the occult teaching made its appearance through the inspired activity of H.P.B., a number (an increasing number as the years slipped by) of theosophical members presented the occult [141] teaching in such a manner that it travestied the true teaching and outraged the intellectual perception of the mass of enquiring and intelligent men. The teaching on the etheric body is an instance of this. H.P.B. was largely responsible, because of utilising the word “astral” to cover a mass of information anent the etheric as well as the astral. This was due to the realisation of the fact that the astral body was doomed in a few generations (relatively speaking) to disappear, and for H.P.B. in particular was already nonexistent, owing to the advanced point in evolution reached by this disciple.

Do nhận thức rằng thể dĩ thái luôn là một biểu hiện của năng lượng nổi trội đang chi phối nhân loại trong bất cứ chu kỳ đặc biệt nào, H.P.B. đã dùng thuật ngữ “astral body” dưới hình thức có thể hoán đổi cho nhau với etheric body. Trong đa số trường hợp, etheric body là hiện thể hoặc khí cụ của năng lượng cảm dục (astral energy). Đa số con người trong bản chất vẫn còn thuộc thời kỳ Atlantis hay là nặng về cảm dục, và điều này có nghĩa là một tỷ lệ bách phân lớn hơn mà nhà huyền linh học bậc trung sẵn sàng thừa nhận. Tuy nhiên, bà H.P.B. rất chân thực và biết rằng vào thời đó và trong vài trăm năm nữa (có lẽ khoảng ba trăm năm) thể cảm dục sẽ tiếp tục thống trị đa số các phản ứng của con người và do đó chi phối cách hành xử trong cuộc sống hằng ngày của họ. Do đó dẫn đến sự nhầm lẫn bề ngoài giữa hai “thể” này trong các tác phẩm.

Realising that the etheric body was an expression always of the dominant energy controlling mankind in any particular cycle, H.P.B. used the term “astral body” as interchangeable with the etheric body. The etheric body, in the vast majority of cases is the vehicle or the instrument of astral energy. The mass of men are still Atlantean or astral in their natures, and this means a far larger percentage than the average occultist is willing to admit. H.P.B. was, however, truthful and knew that at that time and for several hundred years afterwards (probably about three hundred years) the astral body would continue to govern the mass of human reactions and their consequent daily life expression. Hence the apparent confusion in the writings between these two “bodies.”

*****************************

Khi chúng ta học về thể dĩ thái chúng ta bước vào thế giới năng lượng nằm đằng sau những hoạt động của xác thân chúng ta. Châm cứu của Đông Y cũng như Y học cổ của Ấn độ làm việc với thể dĩ thái. Kỹ thuật nhiếp ảnh Kirlian cũng bắt đầu chạm đến thể dĩ thái của sinh vật, có thể chụp hình được hào quang sức khỏe của thể dĩ thái. Và chúng ta hi vọng rằng khoa học tương lai sẽ xác nhận sự hiện hữu của thể dĩ thái nằm đằng sau mọi hình thể vật chất hiện nay, và đó sẽ là cuộc cách mạng trong khoa học và y khoa về bản thể con người. Học hỏi về thể dĩ thái bạn không thể tìm hiểu được ở đâu đầy đủ như trong giáo lý của Chân sư DK. Trong loạt bài trước đây (Luân xa) chúng tôi đã tóm lượt giáo lý của Chân sư DK về các luân xa của thể dĩ thái, và trong bài hôm nay (cũng như các bài tiếp theo), chúng ta sẽ nghiên cứu thể dĩ thái qua sự giảng dạy của Chân sư DK.

Tại sao việc nghiên cứu về thể dĩ thái lại cực kỳ quan trọng như vậy?

Thể dĩ thái nằm dưới hay đứng đàng sau (sub-stand) mọi hình thể trần gian. Chức năng của nó là tiếp nhận, hấp thu và truyền dẫn sinh lực đến mọi nơi của cơ thể.

Chân sư DK nói rằng việc nghiên cứu về thể dĩ thái vô cùng quan trọng với con người vì nó là cái khung sườn để thể hồng trần đâm đặc được xây dựng theo. Thể dĩ thái nằm dưới hay đứng đàng sau (sub-stand) mọi hình thể trần gian. Chức năng của nó là tiếp nhận, hấp thu và truyền dẫn sinh lực đến mọi nơi của cơ thể. Nó cũng là cầu nối giữa các thể cao hơn (thể cảm dục và hạ trí) đến thể xác. Trong hai nửa của thể hồng trần (physical body) thì thể dĩ thái quan trọng hơn nhiều. Nó chính là yếu tố quyết định, kiểm soát và thể xác trọng trược chỉ là bộ máy tự động (automaton) tuân theo. Do đó, đức DK nói rằng thể dĩ thái là một nguyên lý, còn thể xác thì không. Tuy nhiên, hiện nay có một lỗ hổng hay khoảng trống trong tâm thức con người về thể dĩ thái. Người ta có thể ý thức được về thể xác, biết được cảm xúc, tư tưởng và những tác động của nó lên thể xác, nhưng hiểu biết về thể dĩ thái hoàn toàn thiếu sót. Do đó bổn phận của người đạo sinh là chứng minh được sự hiện diện của nó, học hỏi về cấu trúc và hoạt động của nó, và áp dụng vào con đường tu học của mình. Sau đây là trích dẫn từ sách của Chân sư DK:

Về căn bản, thể dĩ thái là bộ máy đáp ứng quan trọng nhất của con người, không những nó giúp cho năm giác quan vận hành đúng đắn, và do thế mà cung cấp năm điểm tiếp xúc chính với thế giới hữu hình, mà nó cũng còn giúp cho con người ghi nhận được một cách bén nhạy các cõi giới tinh anh, và, khi được linh hồn kiểm soát và tiếp năng lượng, nó giúp làm cho các lãnh vực tinh thần rộng mở ra.

Dĩ thái thể là một nơi tiếp nhận mạnh mẽ các ấn tượng, vốn được truyền đến tâm thức con người thông qua các luân xa đã được khơi hoạt. [EH trang 83]

The etheric body is fundamentally the most important response apparatus which man possesses, producing not only the right functioning of the five senses and consequently providing five major points of contact with the tangible world, but it also enables a man to register sensitively the subtler worlds, and, when energised and controlled by the soul, the spiritual realms stand wide open also.

The etheric body is a potent receiver of impressions, which are conveyed to the human consciousness through the medium of the awakened centres. EH83

Khi những nhà trị liệu thành thạo, với tri giác, có hiểu biết đầy đủ và thực dụng về thể dĩ thái, với sự thông hiểu về các năng lượng đang tạo nên thể đó, hoặc loại năng lượng mà nó đang hoặc có thể truyền dẫnthông hiểu về cấu tạo tế vi của con người, về các phương pháp điều khiển năng lượng từ một điểm và vị trí này đến điểm khác, có thể làm việc với kiến thức y khoa đầy đủ hoặc là có sự cộng tác đầy đủ với nhà giải phẫu hoặc y sĩ chính thống, lúc bấy giờ, các thay đổi phi thường sẽ xảy ra. Một sự khai ngộ quan trọng sẽ đến với nhân loại.

When trained healers, with perception, with a full working knowledge of the etheric body, with an understanding of the energies which compose it or which it does or can transmit, of the subtle constitution of man and of the methods of directing energies from one point and location to another, can work with full medical knowledge or in full collaboration with the orthodox physician or surgeon, then tremendous changes will be brought about. Great enlightenment will reach the race of man. EH556

Hiện tại, thái độ của huyền linh học thì tương đối tiêu cực đối với sự kiện và bản chất của thể dĩ thái. Người ta sẵn sàng thừa nhận sự hiện hữu của nó, nhưng yếu tố chiếm vị trí nổi bật trong tâm thức của họ vẫn là sự kiện về thể xác (mà dường như cả đời sống đều được đan dệt chung quanh sự tiện nghi, sự an toàn và sự chăm sóc cho thể đó) và sự kiện về bản chất cảm dục hay là bản chất tình cảm. Không một ai trong số họ, hay nói chung, trong số các đạo sinh huyền linh học, để ý chút nào đến thể dĩ thái, và có một sự gián đoạn hay một lỗ hổng lớn, một cách bình thường và đúng đắn chỉ vào lúc này, trong tâm thức ngày nay giữa phàm ngã với Tam Nguyên Tinh Thần. Lỗ hổng này sẽ được lấp lại bằng cách xây dựng đường Antahkarana, và chỉ các đạo sinh cao cấp mới có thể kiến tạo được giác tuyến này. Không có cầu nối nào như thế được dự định cho lỗ hổng trong tâm thức giữa thể xác với đối phần dĩ thái. Thể dĩ thái tồn tại trong chất dĩ thái tinh anh, và thực tế mà nói, không có lỗ hổng thực sự nào, chỉ có sự thiếu hiểu biết của nhân loại về một khía cạnh của thể hồng trần vốn còn quan trọng hơn thể xác đậm đặc nhiều. Tâm thức của con người ngày nay thuộc về hồng trần-cảm dục (physical-astral), và yếu tố của các năng lượng đang chi phối lại không được biết đến, bị bỏ sót, và – từ quan điểm của tâm thức – không tồn tại.

The attitude of occultism is, at this time, relatively negative to the fact and the nature of the etheric body. People are ready to admit its existence, but the dominant factors in their consciousness are the fact of the physical body (around whose comfort, security and care all life seems woven) and the fact of the astral or emotional nature. Not one among them, or among occult students generally, pays any attention to the etheric body, and there is a great hiatus or gap in consciousness today (only this time normally and rightly) between the personality and the Spiritual Triad. This gap will be bridged by the building of the antahkarana, and this can only be built by advanced students. There is no such planned bridge for the gap in [140] consciousness between the physical body and the etheric counterpart. The etheric body exists in subtle etheric matter, and factually there is no true gap; there is simply the ignoring by humanity of an aspect of the physical body which is of far more importance than is the dense physical vehicle. The consciousness of men today is physical-astral, and the factor of conditioning energies is ignored, overlooked, and—from the angle of consciousness—non-existent.

Một trong các bổn phận chính của các đạo sinh huyền linh học ngày nay là chứng minh sự thực về thể dĩ thái; khoa học hiện đại đã đang chứng tỏ điều đó vì các nghiên cứu của khoa học hiện nay đã dẫn nó đi vào lĩnh vực của năng lượng. Khoa điện-trị liệu (electro-theraphy) với nhận thức ngày càng tăng rằng con người có bản chất là điện, và nhận thức rằng ngay cả nguyên tử, dù bề ngoài là các đối tượng vô tri giác, lại là một thực thể rung động linh hoạt, chứng minh cho quan điểm huyền linh học này. Nói chung, khoa học đã đi trước huyền bí học ở sự thừa nhận của nó về năng lượng như là yếu tố vượt trội trong mọi biểu lộ của hình hài. Các nhà Thông Thiên Học và những người nghiên cứu khác tự hào về việc họ vượt trước tư tưởng của nhân loại, nhưng không phải thế. H.P. Blavtasky, một điểm đạo đồ cao cấp, có trình bày các quan điểm đi trước khoa học, nhưng điều này không đúng với những diễn giả của Thông Thiên Học. Sự kiện tất cả các hình thức biểu lộ là các hình thức năng lượng, và hình hài đích thực của con người cũng không là ngoại lệ, là món quà của khoa học, chứ không phải của huyền linh học, dành cho nhân loại. Việc chứng minh rằng ánh sáng và vật chất là các thuật ngữ đồng nghĩa cũng là một kết luận của khoa học. Các nhà huyền bí học luôn luôn biết rõ điều này, nhưng các trình bày tự tin [141] và ngốc nghếch của họ về chân lý đã gây bất lợi rất nhiều cho Thánh Đoàn. Rất thường các Chân Sư lên án phương pháp của các nhà Thông Thiên Học và các nhóm huyền bí khác. Khi cách trình bày mới về giáo lý huyền môn xuất hiện nhờ hoạt động gợi cảm hứng của H.P.B., thì một số (và số này ngày càng đông hơn theo thời gian) các thành viên Thông Thiên Học trình bày giáo lý huyền môn theo cách thức nó bóp méo giáo lý đích thực và xúc phạm nhận thức trí tuệ của đám đông những người tìm hiểu và sáng suốt. Giáo huấn về thể dĩ thái là một bằng chứng của việc đó. H.P.B. chịu trách nhiệm phần lớn, vì dùng thuật ngữ “astral” để chỉ một số lớn kiến thức liên quan đến etheric (dĩ thái) cũng như astral (cảm dục)Điều này do bởi sự kiện rằng thể cảm dục trong một vài thế hệ nữa (nói một cách tương đối) sẽ chịu số phận biến mất, và cụ thể ở H.P.B. nó đã không tồn tại, do bởi mức tiến hóa cao mà vị đệ tử này đạt đến.

One of the main obligations of occult students today is to testify to the fact of the etheric body; modern science is already thus testifying because its researches have now landed it in the realm of energy. Electro-therapy, the growing recognition that man is electrical in nature, and the realisation that even the atom in apparently inanimate objects is a living vibrant entity substantiate this occult point of view. Generally speaking, science has preceded esotericism in its recognition of energy as a dominant factor in all form expression. Theosophists and others pride themselves on being ahead of human thinking, but such is not the case. H.P.B., an initiate of high standing, presented views ahead of science, but that does not apply to the exponents of the theosophical teaching. The fact of all manifested forms being forms of energy, and that the true human form is no exception, is the gift of science to humanity and not the gift of occultism. The demonstration that light and matter are synonymous terms is also a scientific conclusion. Esotericists have always known this, but their aggressive and foolish presentations of the truth have greatly handicapped the Hierarchy. Frequently the Masters have deplored the technique of the theosophists and other occult groups. When the new presentation of the occult teaching made its appearance through the inspired activity of H.P.B., a number (an increasing number as the years slipped by) of theosophical members presented the occult [141] teaching in such a manner that it travestied the true teaching and outraged the intellectual perception of the mass of enquiring and intelligent men. The teaching on the etheric body is an instance of this. H.P.B. was largely responsible, because of utilising the word “astral” to cover a mass of information anent the etheric as well as the astral. This was due to the realisation of the fact that the astral body was doomed in a few generations (relatively speaking) to disappear, and for H.P.B. in particular was already nonexistent, owing to the advanced point in evolution reached by this disciple.

Thể dĩ thái là gì?

Thể dĩ thái là một mạng lưới các dòng năng lượng, các tuyến lực và ánh sángDọc theo các tuyến năng lượng này, các mãnh lực vũ trụ tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch

Tất cả hình hài trong thế giới hồng trần của chúng ta đều có một thể dĩ thái nằm đằng sau nó. Thể dĩ thái này được cấu tạo từ chất liệu của 4 cõi phụ dĩ thái: 1, 2, 3, 4. Tuy nhiên, nó không giống như thể xác của chúng ta là một “khối” toàn thể, mà nó là tập hợp của của các lực tuyến (lines of force) đen xen vào, giống như một tấm lưới. Do đó nó còn được gọi là tấm lưới dĩ thái (etheric web). Các lực tuyến này Kinh sách Ấn độ gọi là nadis, Châm Cứu Trung Quốc gọi là kinh lạc. Các thể dĩ thể các các hình thể trong vũ trụ họp thành tấm lưới của hành tinh, của thái dương hệ, của vũ trụ.

1. Không có gì trong vũ trụ biểu lộ – thuộc về thái dương, hành tinh, hoặc các giới khác nhau trong thiên nhiên – mà lại không sở đắc một hình thức năng lượng, tinh anh và vô hình, tuy vẫn có [143] thực, kiểm soát, chi phối và điều khiển thể vật lý bên ngoài. Đây là thể dĩ thái.

There is nothing in the manifested universe—solar, planetary or the various kingdoms in naturewhich does not possess an energy form, subtle and intangible yet substantial, which controls, governs and conditions the outer physical body. This is the etheric body.TEV 142

2. Thể dĩ thái có mục tiêu chính yếu duy nhất là làm sinh động và tiếp sinh lực cho xác thân, và nhờ đó mà kết hợp nó vào thể năng lượng của Địa Cầu và của Thái dương hệ. Đó là một mạng lưới với các dòng năng lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Nó tạo thành một phần của hệ thống lưới năng lượng rộng lớn đang ẩn dưới một hình hài dù lớn hay nhỏ (tiểu thiên địa hoặc đại thiên địa). Dọc theo các tuyến năng lượng này, các mãnh lực vũ trụ tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch. Việc luân lưu cá biệt, không ngừng – trong con người, trong hành tinh và trong thái dương hệ – của sinh lực qua thể dĩ thái của mọi hình hài, là nền tảng của mọi sự sống biểu lộ, và là biểu hiện của tính bất phân ly chính yếu của mọi sự sống. [Trị Liệu Huyền Môn trang 2]

The etheric body has one main objective. This is to vitalise and energise the physical body and thus integrate it into the energy body of the Earth and of the solar system. It is a web of energy streams, of lines of force and of light. It constitutes part of the vast network [Page 3] of energies which underlies all forms whether great or small (microcosmic or macrocosmic). Along these lines of energy the cosmic forces flow, as the blood flows through the veins and arteries. This constant, individual—human, planetary and solar—circulation of life-forces through the etheric bodies of all forms is the basis of all manifested life, and the expression of the essential non-separateness of all life. EH P2

Sau đây là tóm tắt những điểm chính yếu về về thể dĩ thái

Các đạo sinh thường hay chỉ nói đến thể dĩ thái như một thực thể toàn vẹn và như là chỉ được tạo thành bằng chất dĩ thái, mà quên rằng thể dĩ thái là trung gian để chuyển nhiều loại năng lượng. Họ quên các sự kiện sau:

Students have been apt to speak simply of the etheric body as an entire integral entity and as constituted solely of etheric substance, forgetting that the etheric body is the medium for the transfer of many types of energy. They forget the following facts:

1. Rằng chính thể dĩ thái được làm bằng bốn loại vật chất, mỗi loại được chuyên hóa rõ rệt và ở trên một trong các cõi phụ dĩ thái.

1. That the etheric body is itself composed of four types of substance, each of which is definitely specialised and found on one or other of the etheric levels.

2. Rằng các chất này, hoạt động một cách tích cực trong bất cứ thể dĩ thái đặc biệt nào, tạo ra một mạng lưới các vận hà (channels); chúng tạo ra những ống nhỏ (Tôi tạm dùng một từ ngữ không được thích hợp cho lắm), các ống này lấy hình thể chung của chất liệu đậm đặc hay là dạng hữu hình mà chúng có thể liên kết được. Dạng này nằm dưới mọi phần của thể xác và có thể thấy vươn dài ra một khoảng cách nào đó bên ngoài của hình hài có thể nhận biết được. [1] Thực ra, thể dĩ thái này không có dạng hình trứng (như các sách huyền học cổ xưa giảng dạy) mà thường thường có dạng thức hoặc là đường nét chung của thể xác mà thể dĩ thái đó liên kết chặt chẽ. Tuy nhiên, khi luân xa đỉnh đầu được khơi hoạt và hoạt động, bấy giờ cái dáng vẻ hình trứng mới thường gặp nhiều hơn.

[1] Trong một đoạn khác, đức DK nói rằng độ vươn dài ra của thể dĩ thái tùy thuộc vào trình độ tiến hóa của cá nhân, có thể từ vài inch (1 inch=2,54cm) đền nhiều inch.

2. That these substances, functioning actively in any particular etheric body, create a network of channels; they produce fine tubes (if I may use so inappropriate a word) which take the general form of the dense material or tangible form with which they may be associated. This form underlies every part of the physical body and can be seen extending for a certain distance outside of the recognisable form. This etheric body is not in reality an ovoid (as the older occult books teach) but usually takes the form or general outline of the physical vehicle with which it is associated. When, however, the head centre is awakened and functioning, then the ovoid appearance is far more frequent.

Hình Kirlian của một cái lá thường xuan (Ivy leaf)

 

Hình ảnh Kirlian của một chiếc lá trước và sau khi bị ngắt một phần

 

Hình Kirlian của một đồng tiền xu

 

Hình Kirlian của thức ăn trước và sau khi được nấu chín.

 

Nói thêm về các nadis hay kinh lạc

Chân sư DK mô tả cho ta cấu trúc của các nadis trong đoạn văn như sau. Ngài nói nó gồm năm ống dẫn (strands or fibers) mãnh lực đan lại chặt chẽ với nhau bên trong một lớp vỏ của một lọai mãnh lực khác. Năm ống dẫn này truyền dẫn 5 loại prana khác nhau trong cơ thể. Đức DK nói rằng các nadis chính là đối phần dĩ thái của các sợi thần kinh, và từ mô tả của Chân sư DK ta có thể phác họa hình ảnh của các nadis như sau. Các bạn cũng có thể so sánh nó với hình ảnh cấu trúc của sợi thần kinh (nerves) mà khoa học đã biết:

Mỗi một lực tuyến li ti này trong bản chất thì ngũ phân giống như năm sợi dây của thần lực, đan lại chặt chẽ với nhau bên trong một vỏ bọc bao phủ bằng một mãnh lực khác. Những mãnh lực này bị buộc với nhau trong một mối quan hệ cắt ngang.

Each of these tiny lines of energy are fivefold in nature and resemble five strands or fibers of force, closely knit together within a covering sheath of a different force. These forces are bound together in a cross-sectional relation. EP II 592.

Cấu Trúc Sợi Thần Kinh (Ảnh Từ Internet)

 

Minh họa cấu trúc của nadi

Khi con người tiến hóa cao, mãnh lực truyền dẫn trong các nadi ngày càng nhiều và nhanh hơn, sự ma sát sẽ phá hủy các lớp vỏ phân các giữa các ổng dẫn truyền thần lực. Khi đó, 5 ống dẫn sẽ hợp thành một ống dẫn duy nhất, bên trong ống dẫn đó mãnh lực của linh hồn sẽ tuôn chảy, còn bên ngoài, xung quanh ống dẫn là các năng lượng khác. Lúc đó các nadi có cấu trúc nhị phân, phản ảnh phàm ngã đã được tích hợp với linh hồn. Các bạn xem hình minh họa sau đây.

Khi sự tiến hóa tiếp diễn và các sinh lực ngày càng lưu chuyển tự do hơn dọc theo các nadi và qua các luân xa chính, phụ, và tế vi, thì việc phân phối và lưu chuyển thần lực ngày càng nhanh hơn, cơ thể ngày càng chói rạng hơn. Bức tường ngăn cách giữa các kênh truyền dẫn năng lượng bên trong nadi bị tan rả (do tác động của mãnh lực linh hồn) và biến mất. Và như thế các nadi của người đệ tử cao cấp bây giờ có một hình thể mới, chỉ cho ta thấy y nay chủ yếu có bản chất nhị phân, là một phàm ngã tích hợp. Y là linh hồn và phàm ngã. Mãnh lực của linh hồn chảy thông suốt bên trong vận hà trung tâm của nadi, còn các lực khác chảy thông suốt ở bên ngoài.

As evolution proceeds and the life forces flow ever more freely along the “nadis” and through the centres—major, minor, and minute—the rapidity of the distribution and of the flow, and the consequent radiance of the body steadily increases. The separating walls within the enclosing sheath of the tiny channels of force eventually dissolve (under the impact of soul force) and so disappear and thus the “nadis” of the advanced disciple take a new form indicating that he is now essentially and consequently dual and is therefore an integrated personality. He is soul and personality. Soul force can now flow unimpeded through the central channel of the “nadi” and all the other forces can flow unimpeded around it. .

Các nadis giao cắt nhau nhiều lần tạo thành các Trung tâm lực hay luân xa. Tùy theo số lần giao cắt mà ta có luân xa chính, phụ, và tế vi.

Thể dĩ thái là một thể được tạo thành hoàn toàn bằng các tuyến lực và các điểm mà các tuyến lực này giao nhau, và (khi cắt ngang) như vậy, tạo thành các trung tâm năng lượng. Nơi nào có nhiều tuyến lực như thế giao nhau, ta có một trung tâm năng lượng lớn, và nơi mà các dòng năng lượng lớn gặp và giao nhau, như ở trong đầu và trên xương sống, thì ta có bảy luân xa chính. Các nhà huyền bí học biết được có bảy luân xa như thế, cộng với 21 luân xa nhỏ hơn và 49 cái còn nhỏ hơn nữa. Tuy nhiên, vào lúc này, chúng ta sẽ tự giới hạn vào thể dĩ thái nói chung và vào bảy trung tâm lực chính.

“The etheric body is a body composed entirely of lines of force and of points where these lines of force cross each other and thus form (in crossing) centres of energy. Where many such lines of force cross each other, you have a larger centre of energy, and where great streams of energy meet and cross, as they do in the head and up the spine, you have seven major centres. There are seven such, plus twenty-one lesser centres and forty-nine smaller centres known to the esotericists. However, we will confine ourselves at this time to the etheric body as a whole and to the seven major centres. EH p72

Khi các lực tuyến giao cắt nhau 21 lần, bạn có một luân xa chính. Khi chúng giao cắt nhau 14 lần, bạn có một luân xa phụ và khi chúng giao cắt nhau 7 lần, bạn có một luân xa tế vi.

Khi các lực tuyến giao qua giao lại nhau, khi chúng lập lại trong tiểu thiên địa cung giáng hạ tiến hóa và cung thăng thượng tiến hóa của Đại thiên địa, chúng tạo thành năm khu vực dọc theo cột sống và hai khu vực trong đầu, nơi mà năng lượng mạnh mẽ hơn những chỗ khác vì năng lượng tập trung nhiều hơn. Như thế, bạn thấy sự xuất của bảy luân xa chính. Khắp cơ thể, sự giao cắt qua lại của các lực tuyến xảy ra, do đó tạo ra các Trung tâm lực:

1. Khi các lực tuyến giao cắt nhau 21 lần, bạn có một luân xa chính. Có bảy luân xa chính như thế.

2. Khi chúng giao cắt nhau 14 lần, bạn có một luân xa phụ mà tôi đã đề cập đến.

3. Khi chúng giao cắt nhau 7 lần, bạn có một luân xa tế vi, và có hàng trăm luân xa như thế.

Where the lines of force cross and recross, as they repeat in the microcosm the involutionary and evolutionary arcs of the macrocosm, there are formed five areas up the spinal column and two in the head where the energies are more potent than elsewhere, because more concentrated. Thus you have the appearance of the major centres. Throughout the entire body, these crossings and recrossings occur and so the equipment of energy centres is brought into being:

1. Where the lines of force cross 21 times, a major centre is found. Of these there are seven.

2. Where they cross 14 times, you have the appearance of the minor centres, to which I earlier referred.

3. Where they cross 7 times, you have tiny centres and of these minute centres there are many hundreds.

Một ngày nào đó người ta sẽ thiết lập được bản đồ của thể dĩ thái, khi đó người ta sẽ thấy được chiều hướng tổng quát của các lực tuyến. Người ta sẽ thây rõ ràng dòng chảy lớn của các nguồn năng lượng, xác định một cách dễ dàng trình độ tiến hóa, và có thể chỉ ra một cách không sai lầm tình trạng tâm linh của ai đó. Tuy nhiên, sự phức tạp của vấn đề này là rất lớn, do sự khác biệt trong trình độ phát triển tiến hóa của các thể, trình độ mở mang tâm thức [Trang 593] và sự tiếp nhận đối với sự kích thích của con người. [Tâm Lý Học Nội Môn trang 72-73]

Some day the entire etheric body will be charted and the general direction of the lines of force will then be seen. The great sweep of the energies will be apparent, the point in evolution more easily established and the psychic situation infallibly indicated. The intricacy of the subject is, however, very great, owing to just this difference in the evolutionary development of the vehicles, the stage of the expanding consciousness [Page 593] and the receptivity to stimulation of the human being. EP II p592.

Quay trở lại các nét chính về thể dĩ thái.

3. Các vận hà hay các ống (tubes) này – tùy theo loại năng lượng mà chúng chuyên chở – đi qua một vài vùng của cơ thể, xuyên qua ba trạm chính:

  1. Bảy trung tâm lực chính, mà bạn đã nghe nói nhiều.
  2. Hai mươi mốt trung tâm lực nhỏ hơn mà Tôi có phác họa cho bạn trước đây (Luận về Bảy Cung, quyển IV, trang 72 – 73).
  3. Bốn mươi chín điểm tập trung, rải rác khắp cơ thể.

3. These channels or tubes—according to the type of energy they carry—pass to certain areas of the body, via three main stations:

a. The seven major centres, of which you have heard much.

b. The twenty-one minor centres, which I outlined for you earlier. [xiii]*

c. The forty-nine focal points, scattered all over the body.

4. Tất cả các trung tâm lực và tụ điểm cho việc truyền dẫn năng lượng này được liên kết với nhau bằng các vận hà lớn hơn so với đa số các vận hà vốn tạo ra thể dĩ thái nói chung, bởi vì nhiều vận hà nhỏ và tuyến lực hay năng lượng phối hợp và trộn lẫn khi chúng ở gần một trung tâm lực hoặc một điểm tập trung.

4. All these centres and focal points for the transmission of energy are connected each with each by larger channels than the mass of channels which constitute the etheric body as a whole, because many lesser channels and lines of force or energy merge and blend as they near a centre or a focal point.

5. Đa số các vận hà nhỏ hơn hay là các ống dẫn năng lượng, sau rốt tạo ra trong mọi hình hài lớp (layer) dây thần kinh tương ứng, chưa được y khoa nhận biết, nhưng nó cũng là một mạng lưới trung gian. Các ống dẫn năng lượng này liên kết thể dĩ thái nói chung với toàn bộ hai hệ thần kinh (hệ thần kinh não tủy và hệ thần kinh giao cảm) mà khoa học đã biết đến. Chính hệ thống này nằm dưới các dây thần kinh, vốn là bộ máy đáp ứng thực sự và – xuyên qua não bộ – nó truyền dẫn thông tin đến thể trí, hay là, xuyên qua não bộ và thể trí, cung cấp cho linh hồn chuyện đang xảy ra. Chính hệ thống các nadis này được đệ tử điểm đạo sử dụng với toàn bộ tâm thức, vị này đã liên kết Tam Thượng Thể Tinh Thần và phàm ngã được linh hồn [153] truyền sinh khí, và do đó đã thấy được thể linh hồn (the soul-body) tức thể nguyên nhân (causal body) hay là hoa sen chân ngã hoàn toàn biến mất, vì không còn tầm quan trọng thực sự nào nữa. Có một liên hệ đặc biệt và hiện nay không thể giải thích được giữa hệ thống các nadis này với antahkarana khi nó đang ở trong tiến trình sáng tạo hoặc được tạo ra.

5.The mass of the smaller channels or the channelling tubes of energy eventually create in all forms that layer of corresponding nerves which are not yet recognised by medical science but which are like an intermediary web or network. These relate the etheric body as a whole to the entire two-fold nervous system (cerebro-spinal and the sympathetic nervous systems) which science does recognise. It is this system underlying the nerves which is the true response apparatus and which—via the brain—telegraphs information to the mind or, via the brain and the mind, keeps the soul informed. It is this system of nadis which is used in full consciousness by the initiate who has related the Spiritual Triad and the soul-infused personality, and has therefore seen the soul-body, the causal body or the egoic lotus totally disappear, being no longer of any true importance. There is a peculiar and at present inexplicable relation between this system of nadis and the antahkarana when it is in process of creation or is created.

6. Do đó, thể hồng trần giống như rất nhiều thể khác trong thiên nhiên, đều có thiết kế tam phân. Đó là:

  1. Thể dĩ thái.
  2. Các nadis chủ yếu.
  3. xác thân (thể xác trọng trược).

Cả ba hợp thành một đơn vị và khi luân hồi đều không thể tách ra.

6. The physical body, therefore, like so much else in nature, is itself triple in design. There is:

a. The etheric body.

b. The substantial nadis.

c. The dense physical body.

These form one unit and in incarnation are inseparable.

7. Trong toàn thể của chúng, các trung tâm lực và nhiều điểm tiếp xúc tập trung nằm trong thể dĩ thái đều có trách nhiệm cho việc sáng tạo và bảo tồn của hệ thống tuyến nội tiết dưới hình thức hoặc là bị giới hạn và không thích hợp, hoặc là tiêu biểu cho con người tinh thần và hoàn toàn thích hợp. Đến phiên chúng, các nadis chịu trách nhiệm cho việc sáng tạo và xuất hiện (precipitation) của hệ thần kinh kép. Đây là một điểm nên ghi nhớ thật kỹ và là manh mối cho vấn đề sáng tạo.

7. The centres in their totality and the many focal points of contact found in the etheric body are responsible for the creation and preservation of the endocrine glandular system in a form either limited and inadequate, or representative of the spiritual man and entirely adequate. The nadis, in their turn, [153] are responsible for the creation and precipitation of the twofold nervous system. This is a point most carefully to be borne in mind and is the clue to the problem of creativity.

8. Loại chất dĩ thái “đứng đàng sau” (“substanding”) bất cứ hình hài nào cũng đều tùy thuộc vào hai yếu tố:

a/ Giới tự nhiên có liên hệ. Về mặt căn bản, mỗi một trong bốn giới đều rút sự sống prana của chúng từ cõi phụ này hoặc cõi phụ khác trong bốn cõi phụ của chất dĩ thái, từ cõi phụ thấp nhất tính lên:

1. Giới khoáng vật được nuôi sống do cõi phụ 1.

2. Giới thực vật được nuôi sống do cõi phụ 2. [154]

3. Giới động vật được nuôi sống do cõi phụ 3.

4. Giới nhân loại được nuôi sống do cõi phụ 4.

Đó là tình trạng ban đầu; nhưng khi sự tiến hóa tiếp diễn và có một phân thân (emanation) do tác động hỗ tương được thiết lập giữa tất cả các giới, điều này tự động thay đổi. Chính “sự thay đổi phát xuất huyền bí” này mà cách đây nhiều thiên kỷ, đã tạo ra người thú. Tôi đưa ra sự kiện này làm minh họa và làm một chìa khóa cho một đại bí ẩn.

b/ Điều hơi kỳ lạ là trong giới nhân loại (và chỉ ở trong giới nhân loại thôi) thể dĩ thái ngày nay được tạo thành bằng bốn loại chất dĩ thái. Lý do của việc này là ở chỗ sau rốt (khi nhân loại đã phát triển về mặt tâm linh) mỗi một trong bốn cõi này tức loại chất dĩ thái sẽ được đáp ứng với bốn cõi phụ cao của cõi hồng trần vũ trụ – các phân cảnh dĩ thái, mà chúng ta gán cho các danh xưng là : phân cảnh Thượng Đế, phân cảnh Chân Thần, phân cảnh Niết Bàn và phân cảnh bồ đề. Điều này sẽ xảy ra như là kết quả của sự tăng trưởng hữu thức và sự điểm đạo.

8. The type of the etheric substance “substanding” any form is dependent upon two factors:

a. The kingdom of nature concerned. Basically the four kingdoms draw their pranic life each from one or other of the four levels of etheric substance, counting upwards from the lowest:

1. The mineral kingdom is sustained from plane 1.

2. The vegetable kingdom is sustained from plane 2.

3. The animal kingdom is sustained from plane 3.

4. The human kingdom is sustained from plane 4.

That was the original condition; but as evolution proceeded and there was an inter-acting emanation established between all the kingdoms, this automatically changed. It was this “esoteric emanating change” which, aeons ago, produced animal-man. I give this as an illustration and a key to a great mystery.

b. Curiously enough, in the human kingdom (and only in the human kingdom) the etheric body is now composed of all four types of etheric substance. The reason for this is that eventually (when mankind is spiritually developed) each of these four planes or types of etheric substance will be responsive to the [154] four higher levels of the cosmic physical plane—the etheric levels, to which we give the names: the logoic level, the monadic, the atmic level and the buddhic. This will happen as a result of conscious growth and initiation.

9. Cũng cần phải nhớ rằng chất liệu mà các vận hà dĩ thái này hay là các ống vận chuyển (channelling tubes) được làm bằng prana hành tinh, tức năng lượng đem lại sự sống, đem lại sức khỏe của chính hành tinh. Tuy nhiên, các ống này có thể chuyên chở tất cả hoặc bất cứ năng lượng có thể có nào – thuộc tình cảm, trí tuệ, Chân ngã, thượng trí, bồ đề hay thuộc niết bàn, tùy theo trình độ tiến hóa mà người có liên hệ đã đạt đến. Sự kiện này luôn luôn có nghĩa rằng nhiều loại năng lượng đang chảy qua các ống này, trừ phi một người ở trình độ tiến hóa cực thấp hoặc một người phải đối phó với tình trạng chia rẽ (cleavage). Các năng lượng khác nhau này hòa lẫn và hợp chung lại, nhưng vẫn tìm ra các điểm tập chung riêng của chúng trong thể dĩ thái khi chúng đi vào trực tiếp bên trong chu vi [155] của xác thân. Giống như trong trường hợp linh hồn của Thượng Đế, ta cũng có thể nói câu sau đây cho thể năng lượng hoặc thể dĩ thái sinh động: “Dù đã thấm nhuần toàn thể vũ trụ này bằng một mảnh nhỏ của chính Ta, Ta vẫn tồn tại”.

9. It must also be remembered that the substance of which these etheric channels or channelling tubes are composed is planetary prana, the life-giving, health-giving energy of the planet itself. Through these tubes, however, may flow all or any of the possible energies—emotional, mental, egoic, manasic, buddhic or atmic, according to the point in evolution which the man concerned has reached. This always means that several energies are pouring through these tubes, unless the point in evolution is exceedingly low or unless one is dealing with a cleavage; these various energies are fused and blended together but find their own focal points in the etheric body when entering directly within the circumference of the dense physical body. Just as it can be said of the soul or of the Deity, so it can be said of the energetic or vital etheric body or entity: “Having pervaded this whole universe with a fragment of myself, I remain.”

Dãy số Fibonacci và tỷ lệ vàng: bí ẩn của Vũ trụ hay chỉ đơn giản là sự trùng hợp?

Dãy số này xuất hiện ở muôn nơi: trong tự nhiên và cũng như từ các sản phẩm nhân tạo, từ vũ trụ cho tới bài nhạc cổ điển.

Số Phi ((Φ,φ) ), số Fibonacci, tỷ lệ vàng là những khái niệm rất nổi tiếng và quen thuộc, đã được các nhà toán học nghiên cứu xuyên suốt lịch sử, từ thời điểm đầu tiên khi nó xuất hiện. Đó là một dãy vô hạn các số tự nhiên bắt đầu bằng hai phần tử 0 và 1 hoặc 1 và 1, các phần tử sau đó được thiết lập theo quy tắc mỗi phần tử luôn bằng tổng hai phần tử trước nó.

Thậm chí, trái với định kiến toán học là khô khan, khái niệm số Fibonacci xuất hiện trong vô vàn lĩnh vực khác như nghệ thuật, sinh học, kiến trúc, âm nhạc, thực vật học và thậm chí, cả tài chính. Rất có thể, bạn đã tiếp xúc với số Fibonacci đâu đó trong sự nghiệp học tập và nghiên cứu rồi. Liệu bản chất của nó có đi kèm với ý nghĩa rằng: Ta có thể tìm ra được một bản dịch thuật được viết bằng số của mọi thứ ta nhìn thấy, ta nghe được – vạn vật xung quanh ta không?

Có lẽ câu trả lời gần với câu hỏi này nhất là câu nói của triết gia vĩ đại Plato, “Chúa trời vận dụng hình học không ngừng nghỉ - God geometrizes continiually”. Rất xin lỗi nếu như khả năng hạn hẹp của tôi không thể dịch ra được một câu hay hơn.


Plato.

Plato.

Giờ hãy nhìn sâu hơn vào hiện tượng toán học thu hút hàng ngàn trí thức gia và học giả từ mọi ngành, mọi kỷ nguyên kể từ lần đầu tiên nó được phát hiện ra: vậy đó là tỷ lệ vàng hay là sự cân xứng thần thánh?. Trước khi bắt đầu chuyến hành trình này, ta hãy lật lại câu chuyện về nhà toán học người Ý Leornardo Bigollo (Leonardo Pisano hay “người tới từ Pisa”), ông Fibonacci.

Đường xoắn ốc Fibonacci

Số Phi được gọi là Phi là bởi nó được đặt theo tên nhà điêu khắc nổi tiếng người Hy Lạp Phidias (sống tại thế kỷ thứ 5 Trước Công nguyên). Ông là người kiến tạo nên những công trình kiến trúc nổi tiếng, trong đó có đền Parthenon tại Athens. Teho như tác giả Mario Livio viết trong cuốn sách Tỷ lệ Vàng: Câu chuyện về Phi, Con số Kì diệu nhất Thế giới, rất nhiều nhà sử học tin rằng Phidias đã áp dụng thành công tỷ lệ vàng vào trong những tác phẩm của mình.


Phidias.

Phidias.

Đó là lý do vì sao nhà toán học Mark Barr quyết định vinh danh Phidias bằng cách đặt tên biểu tượng Φ là Phi. Vì thế, Phi chẳng phải là khám phá được tìm ra bởi Fibonacci (nó cũng đã từng được nghiên cứu và định nghĩa bởi Euclid rồi) và cái tên Phi cũng chẳng mang chút “hương vị nước Ý” nào cả (vị spaghetti chăng?).

Dù vậy, ta vẫn cần phải tìm hiểu thêm khám phá của Fibonacci để có thể hiểu hơn về tiềm năng cân đối tuyệt vời của số Phi và những con số phát sinh từ nó. Sự thành công của Fibonacci và con số tỷ lệ vàng là hai mặt của cùng một đồng xu.

Dãy số Fibonacci được khám phá ra bởi “nhà toán học tới từ Pisa"– dãy 0;1;1;2;3;5;8;13 ... – thuộc lĩnh vực số học, ngành nghiên cứu các con số và những biến đổi cơ bản có thể thực hiện được với những con số ấy. Tỷ lệ vàng, được biểu diễn bằng cái tên Phi (có biểu tượng là Φ, φ) đến từ một thành công trong ngành số học, biểu diễn mối quan hệ của hai yếu tố có trên một đoạn thẳng. Đúng vậy, Phi có một cấu trúc hình học được biểu thị như hình dưới đây:

Chúng ta sử dụng đại số học để tìm ra giá trị số của Phi (Φ), chúng ta sử dụng công thức đơn giản là Φ=a/b. Ta áp dụng công thức này lên biểu diễn hình học của hình ảnh trên, khi lấy tổng chiều dài đoạn thẳng (a b) chia cho đoạn dài hơn (a), ta cũng ra được cùng kết qua khi lấy đoạn dài hơn (a) chia cho đoạn ngắn hơn (b). Tổng kết lại, ta có Phi (Φ) = (a b)/a = a/b.

Kết quả của đẳng thức này là 1,6180339887..., cùng giá trị với tỷ lệ vàng được định nghĩa bởi nhà toán học Euclid, dưới lời mô tả của Mario Livio là “một con số vô tận và không lặp lại”.

Đáng tò mò thay, con số này lại rất giống với kết quả khi chia bất kì con số liên tiếp nào trong dãy Fibonacci cho nhau (ví dụ 5/3=1,666; 13/8=1,625). Kết hợp hai yếu tố này lại, ta đã thành công trong việc sử dụng hình học để biểu thị một phạm trù số học.

Đây là điểm làm cho bài viết này thú vị, chẳng cần tới một nhà toán học để có thể hiểu và thấy được cái đẹp của đại số. Hơn nữa, ta lại hiểu thêm được tính chất số học cơ bản nằm trong khám phá của nhà toán học đại tài tới từ Pisa: đường xoắn ốc Fibonnaci nổi tiếng.

Là điểm cân bằng của tự nhiên, là khoa học của những con số hay chỉ là một sự trùng hợp?

Các đặc tính của số Phi làm chúng ta vô cùng ngạc nhiên, và việc phát hiện ra nó dưới dạng tỷ lệ vàng đã cho ta một lối đi để phân tích những hình thái, những vật thể, những biểu thị hình học và thậm chí là những chuyển động trong tự nhiên vẫn diễn ra trong thế giới này. Nó lại đưa ra tới một câu nói đã được nêu ra đâu đó trong bài viết này: tỷ lệ vàng hay là sự cân xứng thần thánh.

Video hiện chưa sẵn sàng
00:03:43

Bản chất tự nhiên của những con số - Phim ngắn của Cristóbal Vila.

Trong những hình ảnh trên, ta thấy đường xoắn ốc Fibonacci, hình chữ nhật với tỷ lệ vàng nhưng ngoài ra, nó cũng có thể dùng để xác định tam giác tỷ lệ vàng hay hình ngũ giác. Nhưng chúng đều có một điểm chung: chúng đều có “yếu tố vàng” ở trong mình.


Hình ngũ giác với tỷ lệ vàng.

Hình ngũ giác với tỷ lệ vàng.

Mấy con số tỷ lệ vàng này là ta tự tạo ra, liệu môi trường xung quanh ta có “vàng” thế hay “thần thánh” thế không? Những công trình kiến trúc có tỷ lệ vàng là do con người tự làm nên, Mẹ Thiên nhiên có áp dụng công thức ấy trong việc kiến tạo không?

Câu trả lời là có. Ta có thể thấy tỷ lệ vàng trong Kim tự tháp Giza tại Ai Cập, trong logo của Google, hay trong những cánh hoa hồng và thậm chí, trong hình dáng của các ngân hà. Trong tác phẩm La Gioconda – tên gọi khác của bức Mona Lisa vẽ nên bởi Leonardo da Vinci, trong cấu trúc hiển vi của một số tinh thể, và thậm chí (lần 2), có cả trong bản nhạc Dialogue du vent et la mer của nhà soạn nhạc Claude Debussy – dãy số Fibonacci xuất hiện 50 bar nhạc, có thể được chia ra thành những đoạn dài 21, 8, 8, 5, và 13 bar.


Tỷ lệ vàng của bức La Gioconda.

Tỷ lệ vàng của bức La Gioconda.


Tỷ lệ vàng của ngân hà.

Tỷ lệ vàng của ngân hà.

Sự xuất hiện của dãy số, của tỷ lệ vàng kì diệu này ở muôn nơi. Vậy ta gọi nó là con số thú vị nhất thế giới đã đủ xứng đáng chưa? Liệu dựa vào con số này, ta có thể thay đổi được thực tại để làm những điều không tưởng, tạo ra một thế giới không-còn-toán-học không? Nhưng không nghi ngờ gì, những sự thật này cho ta thấy rằng toán học khiến ta cảm thấy những thứ dường như không liên quan gì tới nhau lại có một điểm chung kì lạ: một dãy số níu giữ chúng lại.