Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

PHU THÊ

Bài tham khảo nên các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ.
Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.
Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo.
Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên.
Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù.
Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.
Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly.
Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ.
Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.
Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly.
Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.
Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở.
Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên.
Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.
Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng.
Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.
Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.
Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời.
Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.
Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át.
Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.
Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly.
Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.
Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình.
Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình.
Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.

TẬT ÁCH

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
Dùng Đẩu Số để luận đoán bệnh tật, tai ách, không thể chỉ dùng cung tật ách của nguyên cục, mà phải tiến hành xem xét cung tật ách của từng đại hạn mới có thể suy ra để luận đoán các bệnh tật chủ yếu trong cuộc đời của mệnh tạo.
Có lúc còn phải xem xét cung tật ách của lưu niên, mới có thể đoán được sự phát triển của bệnh tình. Muốn luận đoán Đẩu Số cần phải thoát ra khỏi giới hạn của 12 cung mới có cái nhìn toàn diện và chính xác, lúc luận đoán cung tật ách càng cần như vậy hơn. Nếu chỉ căn cứ cung tật ách của nguyên cục để luận đoán, tuy có thể suy ra một số đặc trưng cơ bản về thể chất, nhưng lại dễ bỏ sót ứng nghiệm tật ách ở đại vận và lưu niên. Cho nên, muốn biết mệnh tạo có mắc bệnh gì nặng trong cuộc đời không, có bị phẫu thuật không, có bị chứng gì nguy hiểm không, thì cần phải quan sát tinh bàn một cách xuyên suốt, bao gồm cả các cung hạn. Bất luận cung tật ách của nguyên cục ở cung độ nào, chỉ cần tìm ra nhóm "sao bệnh" thì chú ý ngay. Sau đó xem nhóm "sao bệnh" này bị các sao sát, kỵ, hình, hao xung hội ở đại vận nào, hay lưu niên nào, mà còn rơi vào cung tật ách, cung mệnh, hay cung phúc đức của đại vận hoặc lưu niên, đều có thể xem đó là thời kỳ ứng nghiệm.
1. Cung Tật Ách có cát tinh tọa thủ, như Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Văn Xương, Tả Phụ, Hữu Bật, chủ ít tai họa; ngộ Kình Dương, Đà La, Thất Sát chủ thân thể có thương tích, mặt mày hốc hác; ngộ Tứ Sát, chủ còn nhỏ đã nhiều bệnh tật, tai nạn nguy hiểm.
2. Các cát tinh thủ trị cung Tật Ách thì tai nạn ít, nếu ngộ tứ sát, không kiếp, hình kị, tử tuyệt thì dễ gặp nhiều bệnh tật.
3. Tật Ách cung không chủ các bệnh tật do ngoại cảnh gây ra, mà chủ các tai ách, nếu cát thì suốt đời ít tai họa, nếu sát thì không tai họa là không tránh khỏi.
4. Luận về bệnh tật, trước tiên cần phải xem Mệnh cung tinh diệu miếu hãm cát hung ra sao, nếu gia tứ sát không kiếp hình kỵ thủ chiếu, lại xem thêm cung Tật Ách tinh diệu thiện ác, miếu vượng lạc hãm ra sao, đồng thời khán cung Phụ Mẫu xem cát hung, từ đó tổng hợp lại mà suy đoán tất không thể nhầm được.
5. Mệnh cung có cát tinh miếu vượng tọa thủ, tam phương tứ chính hội đacát tinh vô hung tinh, nếu cung Tật Ách hội đa hung tinh cũng không đang sợ, cũng không thể cho rằng người này thân thể bất hảo, hoặc dù có một thời gian bệnh tật thì cũng có thể nhanh chóng được chữa trị. Nếu cung Mệnh có đa hung tinh, tam phương tứ chính ít cát tinh, xem cung Tật Ách có cát tinh tọa thủ, cũng có thể cho rằng người này thân thể tốt; nếu cung Tật Ách có nhiều hung tinh, tất suốt đời đa bệnh đa tai, hoặc có bệnh mạn tính không thể trị dứt được.
6. Con người vốn có "thất tình nhục dục", thức ăn thì lộn xộn pha tạp, khí hậu thay đổi, hoàn cảnh bất lợi, làm sao có thể vô bệnh tật? Ý học hiện đại ngày hôm nay đã tiến bộ, nên không thể hoàn toàn dựa vào thuật số để đoán bệnh, chỉ làm tham kảo mà thôi.
1. Tử Vi ở cung tật ách
Tử Vi thuộc thổ, chủ về âm phận, cho nên ở tạng phủ là chủ về tì (tuyến tuỵ). Cơ thể con người hấp thu dinh dưỡng là nhờ tỳ thổ làm việc, cho nên quan sát tình hình của Tử Vi ở cung tật ách có thể biết được tình trạnh hấp thu dinh dưỡng. Nếu Tử Vi là "tại dã cô quân" hay là "cô quân", đều chủ về vì tì thổ yếu khiến cho huyết khí đều thiếu.
Tử Vi gặp các sao hư, hao, Văn Xương, Văn Khúc, thì bệnh do tì thổ gây ảnh hưởng đến trường vị (đường tiêu hoá), biểu trưng là ói mửa, tiêu chảy; nhẹ thì khí trướng, khó chịu trong ngực, gặp Địa Không, Địa Kiếp là lói tim và khó thở.
Nếu Tử Vi gặp các sao phụ, tá trùng trùng, thì cần đề phòng tì thổ khí quá mạnh, hấp thu quá nhiều dinh dưỡng, ảnh hưởng đến tâm và thận. Tâm thuộc hoả, hoả bị thổ mạnh làm tiết khí; thận thuộc thuỷ, thuỷ bị thổ mạnh khắc, khiến mất quân bình, dễ bị bệnh tâm thận bất hoà; bản thân tì thổ khí quá mạnh, cũng chủ về bệnh dạ dày.
Tử Vi có các sao đào hoa đồng độ, hoặc được các sao đào hoa triều củng, chủ về sắc dục, cũng chủ về bệnh kín của phụ nữ. Nếu trong tinh bàn có các sao mắc bệnh thận hội hợp, thì có thể đoán vì sắc dục mà gây nên hư tổn.
Trong các tinh hệ Tử Vi, tổ hợp "Tử Vi, Tham Lang" là chủ về sắc dục; gặp các sao phụ, tá, cũng không giảm nhẹ đặc trưng này. Cho nên, nếu gặpSát tinh thì chủ về bệnh thận. Luận về ngũ hành, do Tham Lang thuộc dương mộc, còn thuộc thuỷ, mộc làm thuỷ bị tiết khí, mà Tử Vi thổ đến khắc thuỷ, bị khắc và tiết khí trùng trùng, vì vậy chủ về có bệnh.
"Tử Vi, Phá Quân" cũng có khuynh hướng mắc bệnh thận, Phá Quân thuộc thuỷ, đồng độ với Tử Vi, không bị thổ khắc. Nhưng khác với tính chất của "Tử Vi, Tham Lang"; do Tham Lang mộc, có thể gây ra chứng can dương thượng kháng, căn nguyên là vì sắc dục, chủ về bệnh thận hư tổn. "Tử Vi,Phá Quân" là thổ thuỷ tương khắc, vì vậy chủ về bệnh kín ở đường kinh thận, nhất là nữ mệnh chủ về bệnh kín phụ khoa.
Nếu "Tử Vi, Phá Quân" gặp sao đào hoa và Sát tinh, đây là bệnh về tính dục, cũng chủ về sẹo ngoài da; không có sao đào hoa, là tì thổ bị thấp mà gây ra bệnh ngoài da.
Tổ hợp "Tử Vi, Thiên Phủ", hai chủ tinh đều thuộc thổ đồng độ, vì vậy chủ về bệnh đường tiêu hoá (tì, vị, trường); được "trăm quan đứng chầu", thì tì thổ quá nặng, gặp sao đào hoa, hư, hao, thì cũng chủ về sắc dục.
Nếu "Tử Vi, Thiên Phủ" đồng độ hoặc đối xung với Hoả Tinh, Linh Tinh; còn gặp Vũ Khúc Hoá Kị đến hội, đây là bệnh loét đường tiêu hoá, hay đường tiêu hoá có khối u; nếu gặp thêm các tạp diệu Thiên Nguyệt, Thiên Hư, Âm Sát, thì có khuynh hướng phát triển thành bệnh ung thư.
Tổ hợp "Tử Vi, Thiên Tướng", do Thiên Tướng thuộc thuỷ, nên chủ về tiểu đường, sỏi thận, sỏi bàng quang, tức bệnh tật ở hệ thống "thuỷ đạo". Gặp Địa Không, Địa Kiếp, có thể là bệnh tuyến tiền liệt. Gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, đây là tì thổ bị thấp, phát triển thành dị ứng da, như nổi mề đay.
Nếu "Tử Vi, Thiên Tướng" hội Vũ Khúc Hoá Kỵ, đây là điềm tượng phải phẩu thuật, đặc biệt chủ về mỗ thận; nhưng có lúc lại là điềm tượng ung thư xương, cần phải xem xét kỹ các tạp diệu mà định. Hễ gặp các tạp diệu Thiên Đức, Âm Sát, Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Thiên Nguyệt, Kiếp Sát, đều có thể là bệnh ung thư.
"Tử Vi, Thất Sát" chủ về tì thổ không nuôi dưỡng phế kim, cho nên chủ về việc thu nạp dinh dưỡng không tốt, ảnh hưởng đến phế tạng hoặc hệ hô hấp. Nhưng phế và đại trường có quan hệ biểu lý, cho nên cũng có thể phát triển thành bệnh đường ruột (đại trường).
"Tử Vi, Thất Sát" gặp Vũ Khúc Hoá Kỵ, nên đề phòng bị thương té ngã; gặpLiêm Trinh Hoá Kỵ, là huyết chứng, hoặc là sự cố bất trắc có chảy máu. Nếu sao đào hoa trùng trùng, mà Liêm Trinh Hoá Kỵ, đây là bệnh về tính dục, hoặc bệnh về máu mủ.
"Tử Vi, Thất Sát" gặp Sát tinh, chủ về do vị thu nạp dinh dưỡng quá mạnh nên gây ra bệnh trường vị (bệnh đường tiêu hoá). "Tử Vi, Thất Sát" có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ, thì đây là chứng loét.
Hễ tinh hệ Tử Vi có Kình Dương đồng độ, lại gặp Thiên Hình, đều chủ về phẫu thuật hoặc vật lý trị liệu. Tinh hệ Tử Vi đồng độ với Kình Dương, chủ về bao quy đầu quá dài; nữ mệnh chủ về bệnh kín âm lãnh.
2. Thiên Cơ ở cung tật ách
Thiên Cơ thuộc mộc, chủ về tạng can (gan), còn chủ về tứ chi, nhất là các ngón tay, ngón chân (đây là lấy nhánh, cành cây ví với tay chân). Cho nênThiên Cơ lạc hãm, lại gặp Sát tinh, thì chủ về tay chân bị thương. Nếu nhập miếu mà gặp Sát tinh, thì phần nhiều chủ về bệnh gan.
Can mộc có thể khắc tì thổ, cho nên khi Thiên Cơ quá vượng (như Hoá Lộc, Hoá Quyền, Hoá Khoa), sẽ chủ về can dương thượng kháng, dẫn đến vị thu nạp dinh dưỡng không tốt.
Thiên Cơ thủ cung tật ách, cũng chủ về lúc bé bị bệnh kinh phong. Thiên Cơ gặp các sao sát, kỵ trùng trùng, sẽ chủ về lúc bé bệnh tật. Nếu Thiên Cơ lạc hãm, sẽ chủ về bị thương, nhất là tay chân.
Thiên Cơ nhập miếu gặp Tả Phụ, Hữu Bật, có lúc ứng là ngón đôi (bàn tay hay bàn chân có sáu ngón).
Nữ mệnh Thiên Cơ thủ cung tật ách, có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chứng âm hư, cũng chủ về chứng lệch tử cung, kinh nguyệt không điều hoà, có lúc vì vậy mà dẫn đến vô sinh.
Nam mệnh Thiên Cơ thủ cung tật ách, có các sao đào hoa đồng độ, đây là điềm tượng thật thuỷ và can mộc mất điều hoà, dẫn đến tâm thận bất giao, nói theo y học hiện đại, có thể coi là rối loạn nội tiết, do đó gây ra các chứng hư tổn.
Thiên Cơ còn chủ về lo toan nghĩ ngợi, cho nên, nếu Hoá Kỵ, hoặc cóThiên Đồng Hoá Kỵ vây chiếu hay hội hợp, sẽ chủ về suy nhược thần kinh, cũng chủ về can dương thượng kháng.
“Thiên Cơ, Thái Âm”, nếu Thái Âm lạc hãm, đây là điềm tượng thận thuỷ không đủ để dưỡng can mộc, cho nên dễ có biểu hiện bệnh hệ thần kinh, nữ mệnh còn chủ về rối loạn nội tiết.
Nếu Thiên Cơ gặp Thái Âm đồng độ hoặc vây chiếu, mà Thiên Cơ và Thái Âm đều lạc hãm, đây là điềm tượng “hư” không được “bổ”. Gặp Sát tinh, đây là điềm tượng tiên thiên bất túc, âm phận và dương phận đều hư tổn, chủ về các chứng nhược, hoặc ám tật, bệnh kín.
“Thiên Cơ, Cự Môn” thủ cung tật ách, Cự Môn chủ về hệ tiêu hoá, bị can mộc khắc, thành can vị bất hoà, biểu hiện là đau bụng, khó chịu trong ngực, bụng trướng. Cự Môn Hoá Kỵ thì càng nặng; nếu Sát tinh nặng, đây là thòng dạ dày (sa bao tử), đau thần kinh dạ dày. Có các sao sát, kị lẫn lộn, sẽ chủ về đau trường vị (đau bụng gió), kiết lỵ.
Tổ hợp “Thiên Cơ, Thiên Lương” gặp Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, là điềm tượng viêm ruột thừa. gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, mà Thiên Cơ Hoá Kỵ thì chủ về đau thần kinh dạ dày, hoặc loét dạ dày; nếu thêm các tạp diệu không cát tường, có thể phát triển thành ung thư dạ dày; nữ mệnh cũng chủ về ung thư vú. “Thiên Cơ, Thiên Lương” gặp các sao sát, kỵ, mà có các sao đào hoa, Văn Xương, Văn Khúc tụ tập, lại gặp thêm các tạp diệu hư, hao, hình, nguyệt, nữ mệnh là ung thư tử cung, nhẹ cũng chủ về bệnh tử cung.
Hễ Thiên Cơ thủ cung tật ách, đều không ưa Kình Dương, Thiên Hình đồng độ, chủ về phẫu thuật dạ dày hay đường ruột; nếu có Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt đồng độ, thì đây là điềm tượng trùng sán, thường có khuynh hướng gan nhiễm ấu trùng (Clonorchiasis), lúc đồng độ với Thiên Lương càng dễ ứng nghiệm.
Tổ hợp “Thiên Cơ, Thiên Lương”, đối với nữ mệnh lại chủ về dễ sinh thiếu tháng, sinh khó; có Hoả Tinh, Thiên Mã đồng độ thì càng đúng.
Nếu “Thiên Cơ, Thiên Lương” hội hợp với Thái Âm Hoá Kỵ, Thiên Cơ ắt sẽ Hoá Lộc, Thiên Lương cũng sẽ đồng thời Hoá Quyền, những sao cát hoá này không đủ sức hoá giải bệnh tật. Do Thái Âm Hoá Kỵ, nên thường biểu hiện chứng âm hư dương kháng, ở tuổi vãn niên, biểu hiện là thị lực và thính giác đều suy thoái, còn dễ trúng phong, dẫn đến bại liệt tay chân.
3. Thái Dương ở cung tật ách
Thái Dương thuộc hoả, là kinh Dương Minh, cho nên lúc Thái Dương nhập miếu sẽ chủ về kinh Dương Minh hoả thịnh, dễ choáng ngất, đau đầu kinh niên, đây là chứng huyết áp cao.
Thái Dương là thuộc Ly hoả, cho nên còn chủ về mắt. Hễ Thái Dương thủ cung tật ách, ắt sẽ có bệnh tật ở mắt, như cận thị, loạn thị, loà mắt,v.v…Thái Dương thủ cung tật ách rất kỵ ở cung Ngọ, vì ánh sáng của Thái Dương quá thịnh; cũng không ưa ở cung Tuất, ngại mặt trời đã lặn về tây, đều chủ về bệnh tật ở mắt. Thái Dương thủ cung tật ách gặp Sát tinh, thường chủ động phẫu thuật ở bộ phận mắt; gặp các sao sát, kỵ trùng trùng, lại còn có các sao Thiên Hình, Thiên Nguyệt, Địa Không, Địa Kiếp, Phục Binh, Phỉ Liêm hội hợp, thường chủ về mù loà; đặc biệt rất kỵ hội hợp với Văn Xương, Văn Khúc Hoá Kỵ.
Kinh Dương Minh hoả thịnh sẽ ảnh hưởng đến kinh phế và kinh đại trường, cho nên chủ về bệnh đường hô hấp, hoặc đại tiện táo kết (táo bón), từ đó có thể dẫn đến bệnh trĩ, đại tiện ra máu. Có Đà La đồng độ, phần nhiều chủ về bệnh ở kinh phế, có Kình Dương đồng độ thì chủ về bệnh ở đại trường. Theo lý luận của Đông y, phế và đại trường có quan hệ biểu lý, cho nên có liên quan đến hai cơ quan này, nhưng cũng có sự phân biệt.
Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” ở cung Mùi và cung Thìn, chủ về kinh Dương Minh hoả thịnh mà âm phận không đủ. Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” ở cung Sửu và cung Tuất, phần nhiều chủ về chứng hư dương thượng kháng. Trường hợp trước là rối loạn nội tiết, trường hợp sau là đau đầu kinh niên hoặc thiên đầu thống. Rất kỵ Thái Dương Hoá Kỵ hoặc Thái ÂmHoá Kỵ, đều chủ về bệnh mắt, tật ở mắt, hoặc ở kinh can (gan) và đảm (mật).
Nếu “Thái Dương, Thái Âm” đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, gặp Sát tinh chiếu, còn hội Thiên Hình, Thiên Thương, chủ về gù lưng, Sát tinh nhẹ thì lưng khòm, cũng chủ về bệnh uốn ván.
Bốn sao Thái Dương, Thái Âm, Văn Xương, Văn Khúc giao hội, mà Văn Xương, Văn Khúc có một sao hoá làm sao kỵ, cũng chủ về bệnh tật ở mắt.
Nếu bốn sao Thái Dương, Thái Âm, Tả Phụ, Hữu Bật giao hội, mà “Thái Dương, Thái Âm” có một sao hoá làm sao kỵ, sẽ chủ về mắt to, mắt nhỏ, hoặc thị lực của hai mắt mất quân bình.
Sáu sao Thái Dương, Thái Âm, Văn Xương, Văn Khúc, Hoả Tinh, Linh Tinh giao hội, lại gặp thêm các sao sát, kỵ, hình, và Thiên Nguyệt, Âm Sát, Hoa Cái, đây là điềm tượng rối loạn nội tiết nghiêm trọng, trường hợp nặng thì bộ phận nào đó trên cơ thể bị biến dạng, hoặc có cơ quan sinh trưởng không bình thường, bị dị dạng (như hẹp van tim, v.v…), hoặc bán thân bất toại.
Tổ hợp sao “Thái Dương, Cự Môn”, không ưa Thái Dương lạc hãm, chủ về dương phận không đủ, biểu hiện là hạ đường huyết, huyết áp thấp, hoặc tay chân lạnh, và các chứng nhược.
Nếu Thái Dương nhập miếu, có Sát tinh, là bệnh ở khoang miệng, thực quản; cũng dễ bị đau đầu kinh niên, huyết áp cao, đường huyết cao.
Nếu Cự Môn Hoá Kỵ, đây là hoả đốt kim bị thương, dễ mắc bệnh đường hô hấp; gặp Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, đây là điềm tượng tràn khí phối (pulmonary emphysema).
“Thái Dương, Cự Môn” đồng cung với Đà La, Thiên Hình, Thiên Nguyệt, cũng dễ bị bán thân bất toại.
Tổ hợp “Thái Dương, Thiên Lương” rất dễ biến thành rối loạn nội tiết, như bướu cổ. Nếu có các sao sát, kỵ trùng trùng hội hợp; có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ; gặp các sao Thiên Hư, Âm Sát, Thiên Nguyệt, Đại Hao, Thiên Đức, Thiên Hình, nữ mệnh chủ về bệnh viêm tuyến vú cấp tính, ung thư vú, đàn ông chủ về viêm dạ dày cấp tính, ung thư dạ dày.
“Thái Dương, Thiên Lương” cũng chủ về bệnh tim và bệnh ở não bộ, nhưng tính chất lại khác với tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm”. Tinh hệ “Thái Dương, Thái Âm” là tâm thận bất giao, âm dương mất điều hoà, dẫn đến rối loạn nhịp tim, mất ngũ, gây ra bệnh tim (người xưa cho rằng bệnh ở não bộ cũng thuộc tạng tâm); còn tinh hệ “Thái Dương, Thiên Lương” thì bệnh do cơ quan gây ra, như tắt nghẽn mạch máu (vascular thrombosis) là một ví dụ.
“Thái Dương, Thiên Lương” có Sát tinh, cũng chủ về ăn uống trúng độc, hoặc sử dụng ma tuý, trường hợp gặp các sao Hoả Tinh, Linh Tinh, Âm Sát, Thiên Nguyệt, Thiên Hư, Đại Hao là đúng.
4. Vũ Khúc ở cung tật ách
Vũ Khúc thuộc kim, chủ về bệnh đường hô hấp, kim có khí “tiêu sát”, cho nên chủ về tổn thương, nhất là tổ hợp “Vũ Khúc, Thất Sát”. Hễ Vũ Khúc thủ cung tật ách, có các sao Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, đều có khuynh hướng bị phẫu thuật hoặc tổn thương. Vũ Khúc đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh cũng chủ về bị thương do kim loại gây nên.
Vũ Khúc đồng cung với Hoả Tinh, Thiên Mã, Thiên Khốc, Thiên Hư, chủ về chảy máu mũi; gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về các bệnh như viêm khí quản, bệnh lao; Sát tinh nhẹ là chủ về chứng ho.
Vũ Khúc thủ cung tật ách, cũng chủ về lúc bé dễ bị ho gà (chincough), vãn niên thì dễ bị chứng phong đàm.
Nếu Vũ Khúc đồng độ với Kình Dương, Đà La, lại có Hoả Tinh, thì hoả làm kim bị tổn thương, chủ về bệnh đường hô hấp; nếu Vũ Khúc lại Hoá Kỵ, còn hội tạp diệu không cát tường, thì chủ về ung thư phổi, hoặc khí quản bị bệnh nghiêm trọng; có Thiên Mã đồng độ, đề phòng bệnh ung thư di căn.
Các tổ hợp sao có khuynh hướng mắc bệnh ung thư, có khối u, loét, là “Vũ Khúc, Thất Sát” và “Vũ Khúc, Phá Quân”. Kỵ nhất là đồng cung với Hoả Tinh, Thiên Mã; Vũ Khúc Hoá Kỵ; hoặc gặp các tạp diệu Thiên Đức, Thiên Thương, Thiên Hình, Thiên Hư, Đại Hao, Âm Sát, Kiếp Sát.
“Vũ Khúc, Thất Sát” còn chủ về chứng sốt bại liệt ở trẻ em, chứng chó dại. “Vũ Khúc, Phá Quân” thì chủ về bệnh răng, nhất là nha chu.
Lưu niên mà gặp cung hạn tật ách do tổ hợp “Vũ Khúc, Thất Sát” giữ cung, thì nên đề phòng tai nạn bất trắc gây tổn thương, như cây đè, sét đánh (ở thời hiện đại có thể là điện giật), còn chủ về vì bị trộm cướp mà bị thương.
Tổ hợp “Vũ Khúc, Thiên Phủ” gặp sao kỵ và Sát tinh, là chủ về nạn sông nước, nhưng cũng chủ về bệnh hen suyễn, kéo đàm, tràn khí phổi (pulmonary emphysema).
Hai tổ hợp sao “Vũ Khúc, Thiên Tướng” và “Vũ Khúc, Phá Quân” nếu gặpSát tinh, còn chủ về bị phá tướng, đề phòng tai nạn té ngã bất trắc và bị nhiễm trùng, nhất là ở bộ phận mặt.
“Vũ Khúc, Thiên Tướng” còn chủ về bị thương có sẹo, bị phẫu thuật, hoặc đau ruột non (tiểu trường).
“Vũ Khúc, Thiên Tướng” đồng độ, chủ về bị phá tướng ở hàm dưới, chân tóc hoặc đầu lưỡi.
“Vũ Khúc, Thiên Tướng” cũng chủ về ám tật, bệnh kín, nhất là nữ mệnh nên đề phòng bệnh tử cung và đường sinh dục.
Vũ Khúc Hoá Kỵ, gặp Thiên Tướng đồng độ hoặc vây chiếu, lại gặp thêm Hoả Tinh, Linh Tinh, Thiên Mã, Địa Không, Địa Kiếp, đây là điềm tượng ruột có khối u, có thể dẫn đến bệnh ung thư, nhẹ thì viêm đại tràng.
Những trường hợp tổ hợp “Vũ Khúc, Thiên Tướng” đối nhau với Phá Quân, hoặc tổ hợp “Vũ Khúc, Phá Quân” đối nhau với Thiên Tướng, nếu gặp các sao sát, kỵ, hình, hao và sao ác trùng trùng, có lúc có thể phát triển thành bệnh xương tuỷ, hoặc thậm chí là ung thư máu.
5. Thiên Đồng ở cung tật ách:
Thiên Đồng thuộc thuỷ, cho nên chủ về bệnh bàng quang, bao gồm các bệnh ở hệ bài tiết, như thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái, bệnh lậu, viêm niệu đạo, bệnh thận.
Do thuỷ làm kim tiết khí, nên lúc Thiên Đồng đồng cung với Đà La thì chủ về bệnh khí quản, ống phế quản (bronchia, phân nhánh của khí quản).
Thiên Đồng chủ về hưởng thụ, nếu Hoá Kỵ, sẽ chủ về tiêu chảy. Nếu Thiên Đồng hội hợp với Thái Âm thì chủ về âm hư, biểu hiện là tiêu chảy thuộc hư chứng, kiết lị; có các sao đào hoa đồng độ thì chủ về mộng tinh, di tinh, hoặc tiểu đêm; thảy đều chủ về thận khí bất túc.
Thiên Đồng đồng độ với Hoả Tinh, Linh Tinh, nếu Thiên Đồng lạc hãm, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, đây là điềm tượng bàng quang, niệu đạo bị viêm, hoặc bệnh tuyến tiền liệt; gặp Thiên Nguyệt thì thận khí tiên thiên bất túc, dễ bị nước tiểu đục (albuminuria, anbumin niệu bất thường).
Thiên Đồng đồng cung với Thiên Mã, chủ về khí hư, nếu lại gặp Sát tinh, đây là điềm tượng khí suy, hư tổn, dễ bị các chứng nhược.
Tổ hợp sao “Thiên Đồng, Thái Âm” chủ về thấp khí, có thể phát triển thành thuỷ thũng, bụng trướng, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ chủ về bệnh do thấp hoả gây ra, dẫn đến tứ chi đau nhức.
Nếu Thái Âm Hoá Kỵ, đây là chứng âm hư hoặc thuỷ tràn làm mộc trôi, dẫn đến viêm gan cổ trướng, phép điều trị là phải củng cố gan thận.
Tính chất cơ bản của “Thiên Đồng, Cự Môn” là “đường, ống, dây” cho nên chủ về bệnh phổi, khí quản, thực quản; cũng chủ về đau thần kinh (vì thần kinh là “đường, ống, dây” vi tế nhất trong cơ thể). Nếu có các sao sát, kỵ, hình, hao tụ tập, có thể phát triển thành bệnh xương tuỷ hoặc bệnh tăng bạch cầu.
Trong các tình hình thông thường, “Thiên Đồng, Cự Môn” gặp Sát tinh, hoặc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, đều chủ về xương cốt biến dạng, thoái hoá, hoặc tăng sinh, dẫn đến chèn ép dây thần kinh, làm đau nhức, có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ thì càng nặng. Nếu có Thiên Hình, Thiên Nguyệt đồng độ, thì có thể là bệnh tật suốt đời, như bệnh về xương tuỷ bẩm sinh.
Đối với tinh hệ “Thiên Đồng, Thiên Lương” cổ nhân cho rằng chủ về bệnh ở phần dưới (hạ tiêu), tức hệ bài tiết và bệnh đường sinh dục, trường hợpThiên Đồng Hoá Kỵ thấy ứng nghiệm nhiều. Nếu gặp Sát tinh, nhất là gặp Hoả Tinh, Linh Tinh sẽ chủ về đau tức vùng gan hoặc lói tim và khó thở. Nếu gặp các sao hình, sát, kỵ tụ tập, lại có thêm các sao Thiên Nguyệt, Thiên Đức, Thiên Mã thì chủ về tắc nghẽn cơ tim. Đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp cũng chủ về thoái vị bẹn, sa đì, sưng hòn dái.
6. Liêm Trinh ở cung tật ách:
Liêm Trinh thuộc âm hoả nên chủ về huyết, các bệnh liên quan đến máu.
Cổ nhân cho rằng “nam trọng tinh, nữ trọng huyết”, cho nên Liêm Trinhcũng chủ về tinh dịch. Xem có bị vô sinh không, người xưa đều xem Liêm Trinh, bất kể ở cung độ nào. Liêm Trinh ở hãm địa mà gặp Hoả Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, nếu trùng hợp gặp ở cung tử của đại hạn, cung tật ách của đại hạn, hay cung mệnh của đại hạn, đều đoán là vô sinh.
Từ “huyết” loại suy thành “tinh” thì chủ về mộng tinh, di tinh, thủ dâm, tinh loãng.
Cho nên Liêm Trinh Hoá Kỵ là bệnh về máu huyết, như lạc huyết (xuất huyết ở miệng từ đường hô hấp hoặc dạ dày mà không ho, không ói), cũng chủ về gặp sự cố bất trắc có liên quan đến chảy máu, do đó có thể mở rộng thành bệnh phong cùi, giang mai, bệnh lậu. Ứng nghiệm ôn hoà nhất là mụn. Nếu gặp các sao hung sát nặng mà còn gặp Vũ Khúc Hoá Kỵ thì chủ về ung thư máu.
Đối với nữ mệnh lúc Liêm Trinh Hoá Kỵ có thể luận đoán là kinh nguyệt khô ít, huyết trắng, kinh nguyệt không điều hoà.
Liêm Trinh Hoá Kỵ rất kỵ bị Vũ Khúc Hoá Kỵ xung hội chủ về gặp nạn tai chảy máu. Muốn biết tai ách có nghiêm trọng nhay không cần phải xem kèm cung mệnh và cung phúc mà định.
Lý luận về bệnh tật của cổ nhân, chia làm âm, dương, biểu, lý. “Huyết” thuộc âm là thuộc “lý”, đối nhau với “khí”. “Khí” thuộc dương là thuộc “biểu”. “Biểu””lý” dựa vào nhau vì vậy Liêm Trinh cũng có thể coi là bệnh về “khí”. Cho nên Liêm Trinh cũng chủ về bệnh phổi, cảm mạo, ho, gặp Hoả Tinh, Đà La thì bệnh nặng.
Trong các tinh hệ, tinh hệ “Liêm Trinh, Thất Sát” phần nhiều chủ là chủ về bệnh đường hô hấp, thường gặp nhất là trường hợp có Sát tinh đồng độ, chủ về mũi dị ứng, viêm mũi, nếu Sát tinh nặng thì chủ về bệnh viêm phổi, có Thiên Nguyệt đồng độ thì chủ về bệnh lao, ho gà.
Tổ hợp “Liêm Trinh, Thiên Tướng” gặp các sao sát, kỵ là chủ về bệnh tiểu đường, sỏi bàng quang, sỏi mật, sỏi thận. Nếu đồng độ Hoả Tinh, Linh Tinh hoặc đồng cung Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về da bị dị ứng, nấm ngoài da, nghiêm trọng thì chủ về bệnh lupus ban đỏ. Nếu “Liêm Trinh, Thiên Tướng” bị “Hình Kỵ giáp Ấn” thì chủ về tắt nghẽn đường ống, cần chú ý các cơ quan đường ống và tuyến nội tiết, có lúc bệnh lại ở xương tuỷ.
Nếu “Liêm Trinh, Phá Quân” có Sát tinh đồng độ, còn chủ về kết sỏi, nếu có Hoả Tinh đồng độ thì chủ về tai nạn bất trắc làm bị thương, có Văn Khúc Hoá Kỵ đồng độ sẽ chủ về tai nạn sông nước.
Hễ “Liêm Trinh, Phá Quân” mà chủ về gặp bất trắc đều bị thương ở phần đầu mặt; “Liêm Trinh, Thất Sát” thì đề phòng gãy xương.
Tổ hợp sao “Liêm Trinh, Tham Lang” có các sao sát, kỵ thì chủ về bệnh ở cơ quan sinh dục, cũng chủ về bệnh thận. Nếu Liêm Trinh Hoá Kỵ và Tham Lang Hoá Kỵ đồng độ hoặc vây chiếu thì chủ về bệnh thận và bệnh máu huyết ảnh hưởng lẫu nhau, dễ xảy ra các bệnh biến khác, tình huống xấu nhất là suy thận, nhẹ thì bị chứng tăng urê-huyết.
Liêm Trinh rất mẫn cảm đối với tứ hoá và Sát tinh, cần chú ý tình huống đại hạn và lưu niên xung hội. Đại khái là rất ngại gặp Vũ Khúc Hoá Kỵ, cũng rất sợ có Kình Dương, Đà La cùng bay đến.
Vì Cô-Qủa là các sao tiết chế, giới hạn nên khi chiếu cung Giải-Ách lại thành ra hay, có nghĩa là mình ít bệnh tật, tai nạn, nhất là khi hội với Thiên-Không lại càng tốt thêm nữa. Tuy nhiên vì hai sao này vẫn có tính cách duy trì, gìn giữ nên mình vẫn dễ bị những bệnh tuy không hiểm nghèo, nhưng triền miên suốt đời mà người ngòai không nhận thấy …!?
Ví dụ : Như hội với Hóa-Kị (tượng trưng cho bộ tiêu hóa, ruột .. trong cơ thể người) lại thêm Song-Hao thì nhất định phải đeo bịnh, đau bụng, khó tiêu … vì Cô-Qủa dù là Hỏa hay Thổ cũng đều không hợp với Hóa-Kị là Thủy.
Ngòai ra những điểm nêu trên, Cô-Qủa chiếu Giải-Ách còn chủ về vần đề ưu tư trong thâm tâm, những nỗi buồn xa xôi mà chỉ có tiềm thức của mình mới nhận thấy và nhiều khi mình lại khó khăn với chính mình.

CUNG QUAN LỘC PHẦN 3

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
1. Cách Văn chương:
Âm Dương Khôi Việt – Xương khúc Tấu Thư – Khôi Việt Khoa tinh – Kình ngộ Văn Xương hội Tử ViLươngHợi ngộ KhôiLong Phượng Diêu Y Khôi Việt – Tử Vi ngộ Tấu Thư (Thần đồng phụ nhi)
Âm Dương hội Văn Xương – Hỏa Linh phùng Tuyệt, hội khoa tinh tại Hợi (Văn chương xuất chúng) – Hồng Hỷ Tấu Vũ Đào (cách ca sĩ, kịch sĩ, đào hát, minh tinh màn bạc)
2. Cách Thành Công:
ngộ Tràng Sinh (làm ăn dễ dàng) tức Thanh Vân Đắc Lộ – Tả Hữu Hồng Đào ngộ Lộc (làm giàu dễ dàng) – Tử Vi ngộ (ngựa kéo xe vua, dễ thành công) – Hổ hàm kiếm (Bạch Hổ đóng cung Dần ngộ Thiên Hình, mãnh liệt, bốc to)
Song long quá hải (Thanh Long, Long ĐứcThìn, Tuất vượt bực) Khoa Quyền Khôi Việt (làm gì cũng thành) – Bạch Hổ Tấu Thư (may mắn lớn) – Bạch Hổ Phi Liêm (hổ có cánh, bốc nhanh) – Kiếp Không Tỵ Hợi ngộ Khoa Quyền (phát dã như lôi) – Tướng Phúc Hồng Đào (thiếu niên hiển đạt)
Hồng Loan Bát Toạthân (Thân đóng cùng với Hồng Loan, Bát Toạ, thành công sớm)Thanh Long Hóa Kỵ ngộ Lưu Hà hay Long Đức (Rồng gặp nước) tứ Linh chầu Mệnh, Thân (Long Mã Hổ Phượng, nếu thiếu con Linh nào có thể thay bằng Hoa Cái, thành công nhanh chóng, đắc lực ) – Tái Quản Lương Phá (Lưu Hà ngộ Phá Toái, bộc phát bộc tàn, cách này thường đi liền với tai nạn)
3. Cách về Chí Lớn:
Nhật Xuất Phù Tang (NhậtMão) – Tử Vi tại Ngọ hội Quyền Khoa (chí cao tuyệt vời) – Tử Vi ngộ Thiên Hình hữu nhất Hóa (bất cứ có Hóa nào, dám làm mạnh, bất khuất) – Văn Hoa Hoè Quêtứ Mộ (Văn Khúc hội cùng Vũ khúctứ Mộ, anh hùng cách)
4. Lấy vợ đẹp chồng sang:
Nguyệt ngộ Văn Xương (tiềm cung triết quệ) – Hồng ngộ Tử (gái tiến cung vua) đóng ở Phu Thê – Phượng Long Thai Toạ (ở cung Thê) – Tả Hữu Hồng Đào Nhật Nguyệt
5- Cách Đa Dâm:
Đào Riêu Hồng Hỷ – Cư Kỵ Hồng Đào Không Kiếp – Tham ngộ Đào Diêu Binh – Tham Kỵ Đào Hồng
6- Cách Giàu:
Lộc Mã tướng Ấn – Phú Vũ Lộc Tồn (đổi kim tích ngọc) – Cự Cơ Mão Dậu, Song Hào (chung thuỷ triệu dong, phú hữu lâu dài) – Thạch trung ẩn ngọc phú hữu lâu dài (NhậtThìn, Cự Môn, có Lộc Tồn)
7. Cách oai vệ, sang trọng:
Binh Hình Tướng Ấn (oai hùng, cung cơ) – Tiên Cái hậu Mã (phía trước có Hoa Cái, phía sau có Thiên Mã, Mệnh ở giữa) – Thái Tọa Quang Quí củng chiếu (đài các, bệ vệ) – Toạ Qui hướng Qui (hay tọa Khôi hướng Việt, hai sao Khôi Việt củng cố cho Mệnh, châu lẩn vào nhau)
Mộ chung Thai Toạ (Mộ đóng chung với Thai Toạ ở Sửu Mùi) – Giáp Long Giáp Hổ (Mệnh ở giữa, nếu có chính tinh thuộc võ cách thì hợp) – Xuất Tướng nhập Tướng ( Mệnh có một Tướng, các cung tam hợp hay xung chiếu có một Tướng nữa)
MỘT SỐ CÁCH KHÁC
Tuần Triệt án ngữ: Có nhiều sao tốt đẹp thì mới tốt đẹp nhiều, có nhiều sao mờ xấu thì mờ xấu nhiều. Riêng bộ sao Sát Phá, Liêm, Tham đắc địa cùng nhiều hung tinh đắc cách nếu có gặp Tuần Triệt, cũng không bị ảnh hưởng mấy. Nhưng Sát, Phá, Liêm, Tham hãm địa cùng nhiều hung sát tinh hãm địa, nếu gặp Tuần, Triệt án ngữ lại thành tốt
Vô chính diệu: Coi chính điệu của cung xung chiếu nhưng dù sao công danh cũng chỉ bình thường mà thôi. Nếu có Tuần Triệt án ngữ thì công danh hoạnh phát nhưng cũng chẳng được lâu bền nhưng có thêm Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu thì hoàn mỹ
Văn Xương, Văn Khúc, Khôi, Việt: Có tài về văn chương, công danh hiển đạt. Có Khôi Việt thường được chỉ huy nhiều người dưới quyền
Cung QuanNhật Nguyệt miếu vượng thì giàu sang, có thêm Xương Khúc là có tài xuất chúng. Giáp Xương Khúc cũng vậy
Tả Phù, Hữu Bật: Cùng nhiều cát tinh là được nhiều người nâng đỡ, cùng nhiều sao mờ xấu thì mờ xấu thêm. Cung QuanTứ MộTả Hữu thủ hay chiếu thì chóng được trọng quyền cao
Khoa, Quyền, Lộc, Lộc Tồn: Uy Quyền, tài lộc được tăng thêm
Long Trì, Phượng Cát hay giáp Long Phượng: Công danh hoạnh phát
Ân Quang, Thiên Quý (nhất là tại Sửu Mùi): cũng hiển đạt.
Thiên Mã: Có nhiều tài năng (Mã Ngộ Khốc Khách: có tài thao lược, danh chức lớn lao ; Lộc Mã: có nhiều tài lộc)
Thiên Hình: đắc địa là hiển đạt về võ nghiệp, mờ ám là gặp tai họa trên đường công danh
Hồng, Đào, Thiên Hỉ, hay Tam Thai, Bát Tọa: Đường công danh nhẹ bước
Thiên Khốc, Thiên Hư tại Tý Ngọ: Có danh tiếng lừng lẫy
Sát Tinh (Kình, Đà, Hỏa, Linh, Không, Kiếp): Những sát tinh này sáng sủa tốt đẹp chỉ thích hợp với nhóm Sát, Phá, Tham Liêm cũng sáng sủa tốt đẹp khi đó thì công danh hoạnh phát. Ngoài ra những chính điệu khác dù sáng sủa, cũng bị lấn át khiến thành bất lực dẫn đến công danh trắc trở, tầm thường. Tất cả những chính điệu hãm địa gặp sát tinh đắc địa đều bị lấn át mạnh hơn. Những sát tinh trên nếu hãm địa đều không thích hợp với tất cả các chính điệu, ngoại trừ Thiên TướngVũ Khúchai sao này có thể chế được tính hung hãn của các sát tinh. Những chính điệu khác nếu sáng sủa tốt đẹp thì đỡ bị sát tinh hãm địa lấn át
Thái Tuế, Hóa Kỵ: Công danh trắc trở, hay bị tranh chấp hoặc gièm pha
Đồng ngộ Kình tại Ngọ: Người anh hùng có danh tiếng
Cự hay ngộ Quyền, Song Hao tại Mão Dậu: Phát lớn về võ nghiệp (Chú ý là cung Quan Lộc rất kỵ gặp Song Hao hãm địa)
Sát Ngộ Quyền tại Dần Thân: Quý hiển, có nhiều uy quyền.
Lưỡng Phá đồng cung (Phá Quân, Phá Toái): Võ chức dũng cảm, có uy quyền
Xương, Khúc, Long, Phượng, Tấu hay Cơ, Vũ, Hồng, Đào, Riêu, Tấu Thư: Người chuyên về ca, vũ, nhạc
Tả, Hữu, Quang, Quý, Quan Phúc: làm thầy thuốc thì cứu nhân, độ thế
Cơ cùng Hồng: Thợ dệt, thợ thêu hay thợ may
Cơ ngộ Hoa Cái, Long Trì, Phượng Các: thợ vẽ hay họa sĩ
Phá Quân hội Kình, Linh, Hao: Người cùng khổ phải đi hành khất (mệnh có nhiều cát tinh đỡ hơn)
CÁCH NGHỀ NGHIỆP
1. THƯƠNG GIA:
Mệnh có Tử Phủ hay Cự, Nhật là người ngay thẳng không ham lợi, không tính toán thiệt hơn, nên không buôn bán được
Mệnh có một trong các chính diệu Tham, Sát (Thất Sát), Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương tốt đẹp tọa thủ là người ham lợi lộc, có óc ganh đua, có xu hướng về thương mại
Mệnh có Tử, Phủ, Vũ, Tướng hoặc Phá gặp Kình đồng cung thì không thích công danh, chỉ ham buôn bán
Mệnh có miếu, vượng hay đắc địa thì thích đi buôn
Mệnh có Cự hội Lộc, Tuế thì đi buôn được giàu có
Mệnh có Đồng, Lương hội Khôi, Quyền, Song Lộc, Đinh, Kỵ là người có tài về thương mại, mau giàu có
Mệnh có Sát, Phá, Liêm, Tham thủ chiếu gặp Tả, Hữu và nhiều sát tinh đắc địa: buôn bán, trước còn có lần thất bại, sau được giàu có
2. CÔNG KỸ NGHỆ GIA:
Mệnh có Tham Vũ tọa thủ hội Sát, Kình: Sáng dạ và khéo tay, có xu hướng về công kỹ nghệ.
Mệnh có Phá hội Hỏa, Việt tại Dần,Thân hoặc có Vũ, Phá, hội Xương Khúc thì khéo tay, giỏi về kỹ nghệ máy móc.
Mệnh có Cơ sáng sủa hội Tả, Hữu, Hình, Linh, Hỏa nên chuyên về thủ công hay kỹ nghệ máy móc
Mệnh tại NgọĐồng, Nguyệt hội sát tinh là người chuyên về công kỹ nghệ (hay đi buôn)
Tướng miếu, vượng hội Kình, Đà là kỹ nghệ gia, giàu có
Mệnh có Liêm, Phá tọa thủ đồng cung là thợ chế tạo những dụng cụ tinh xảo
Sát hãm địa hội Tả, Hữu, Long, Phượng, Quang, Quý là thợ kim hoàn
hội Hình, Riêu, Tấu là thợ mộc khéo
Cơ hãm địa hội Long, Phượng, Đà, Hình là thợ mộc. Nếu thêm Đào, Hồng là thợ trạm, thợ vẽ giỏi
hội Đồng, Tấu là thợ may, thợ thêu
Mệnh có Liêm, Tham tọa thủ đồng cung hội nhiều sát tinh là người thợ rèn hay đồ tể
Mệnh có Mộc dục là người có xu hướng làm nghề kim hoàn hoặc thợ rèn
Phụ chú: Mệnh hay Thân, hay Quan lộc có những cách trên, càng nhiều sao tốt đẹp thì nghề nghiệp càng thịnh vượng
3. VĂN CHỨC:
Các cung Mệnh, Thân và Quan Lộc cần có Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Quyền, Lộc hội họp. Nếu có nhiều văn tinh hội cùng cát tinh thì danh tiếng lừng lẫy
4. VŨ CHỨC:
Các cung Mệnh, Thân Quan Lộc,Sát, Phá, Tham, Liêm, Vũ, Tướng thủ chiếu, gặp Sát tinh đắc địa, cùng Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Binh, Hình, Tướng, Ấn hội họp. Nếu hội nhiều sao sáng sủa tốt đẹp thì rất quý hiển. Còn nếu có Hóa Quyền thì được nhiều người tín phục
Có những cách sau đây thì phát về võ nghiệp:
Thất Sát, Thiên Hình đắc địa đồng cung
Phá, Kình đắc địa đồng cung tại Thìn Tuất
Đồng Nguyệt, Kình hay Tham đồng cung tại Ngọ
Tham, Linh đồng cung
5. VĂN NGHỆ SĨ:
Cơ, Nguỵêt, Đồng , Lương hội Tả, Hữu, Khôi, Việt, Xương, Khúc, Tấu: nhà báo, nhà văn
hội Hồng, Đào, Hỉ, Tấu: ca sĩ, nhạc sĩ
Sát, Phá, Liêm, Tham hội Hồng, Đào, Long, Phượng, Tấu: họa sĩ
6. CÁC NGHỀ KHÁC:
Giáo sư: Lương hội Tả, Hữu, Xương, Khúc, Tuế
Luật sư hay Quan tòa: Mệnh có Tuế, Kình hội Xương, Khúc hay Cự hội Hổ, Tuế, Phu
Y sĩ, Bác Sĩ: Tử, Phủ hay Đồng, Lương hội Thiên Y, Thiên Quan, Thiên Phúc hay Cơ hay Lương hội Tả, Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang Quý
7. TU HÀNH:
Tử, Tham tọa thủ đồng cung ngộ Không, Kiếp
Phủ tọa thủ ngộ Tam Không
Mệnh vô chính diệu gặp sát tinh
Thiên Không, Hồng loan tọa thủ đồng cung.

CÁCH CỤC HY VỌNG KINH TẾ KHÁ

Các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
Vũ khúc miếu và vương địa:
Chỉ sự giàu có, dư dả nói chung, thông thường là giàu về tiền bạc. Nhưng, nếu đóng ở cung Điền thì sẽ giàu về nhà đất.
Vũ Khúc không phân biệt nguyên nhân việc có của: bằng buôn bán, bằng quan tước, bằng kỹ nghệ, bằng ngân hàng, kinh tế v.v..Thiết tưởng ta không nên xác định cụ thể nghề nghiệp nào của Vũ Khúc, chỉ có thể nói rằng sao này liên hệ rất nhiều đến kinh tế, tài chính. Nếu làm việc công thì là quan coi kho, phụ trách ngân khố cho chính phủ hay phủ trách kinh tế quốc gia (thuế vụ, ngân hàng ngoại thương, nội thương). Ngày nay vì ngành xí nghiệp tư phát triển mạnh cho nên Vũ Khúc chỉ cả tư chức làm việc trong ngành kinh tế, tài chính (quản trị xí nghiệp, ngân hàng tư, xuất nhập cảng, thương gia, kỹ nghệ gia, xuất nhập cảng, hối đoái, nghiên cứu kinh tế tài chính v.v..)
Vũ Khúc sáng sủa báo hiệu một thế lực tài phiệt lớn, tức là người nhờ đồng tiền mà có thế lực, đặc biệt là khi đi đôi với Thiên Phủ, Lộc Tồn hay Hóa Lộc.
Thiên phủ:
Chỉ cái kho lớn của trời đât, nghĩa bóng là tài nguyên quốc gia, tất cả những gì sinh lợi cho nhà nước, bất luận lãnh vực nào (thuế má, kinh doanh, thương mại, ngân hàng, ngân khố, quan thuế, coi kho, thủ quỹ, phát lương, tồn trữ sản phẩm...). Đây là một tài tinh quan trọng tương tự như Vũ Khúc.
Nếu cả hai sao đồng cung và đặc biệt có thêm Hóa Lộc, Thiên Mã hay Lộc Tồn thì tài sản càng dồi dào, miễn là không bị sát, hung, hao tinh xâm phạm. Giữa Phủ, rất khó phân biệt sao nào mạnh hơn. Có người cho rằng Phủ là đệ nhị chính tinh, đứng sau Tử Vi, thế tất phải mạnh hơn ...Có quan niệm thì cho rằng Phủ là sao tầm thường và không chế nổi hung tinh hạng nhẹ như Kình, Đà, Linh, Hỏa nên kém hơn .
Thái âm, Thái dương sáng sủa:
Biểu tượng cho hai nguyên lý âm, dương của trời đất. Nhật, Nguyệt có nghĩa bóng là phước của trời đất dành cho mình. Về phương diện tài sản, phước đó cụ thể bằng sự giàu có.
Nếu dựa vào nguyên nghĩa nói trên mà suy luận thì sự thịnh vượng của Âm Dương bắt nguồn từ việc đắc thời, từ vận hội tốt đẹp của đất nước, phù hợp với năng khiếu làm giàu của mình, trong thời bình hoặc trong thời loạn. Điều này được thể hiện qua việc hai sao này thường hội chiếu lẫn nhau. Nếu cả hai sao này gia tăng tài lộc dồi dào, đặc biệt cho những người có giờ sinh tương hợp. Nếu đồng cung thì phải có thêm Hóa Kỵ hay Tuần ha Triệt mới hay.
Ngoài ra, có thể nói sự thịnh vượng đó do cha mẹ để phúc lại vì Thái Âm tượng trưng cho mẹ, Thái Dương cho cha. Nếu cả hai sao cùng sáng thì cha mẹ giàu có, thường để lại di sản cho con cháu. Nếu không giàu thì ít ra cũng thọ.
Riêng Thái Âm trực tiếp có nghĩa điền sản. Đây là sao điển hình cho ai hành nghề bất động sản (chủ điền, chủ phố, chủ đồn điền, xí nghiệp, mua bán nhà đất ...). Cho nên, nếu đóng ở Điền thì rất hợp vị. Vì vậy, người ta cho rằng, về mặt của cải, Thái Âm lợi hơn Thái Dương. Ngay cả trong trường hợp Âm, Dương đồng cung (ở Sửu hay Mùi), nếu được Tuần, Triệt án ngữ (hay có Hóa Kỵ đồng đi kèm) thì Âm vẫn thịnh hơn DươngSửuMùi là 2 cung Âm.
Riêng Thái Dương đi với Thiên LươngMão với Cự MônDần, hoặc Thái Âm đi với Thiên Đồng cũng rất giàu có.
Việc cung Tài giáp được Âm, Dương sáng sủa cũng chỉ dấu hiệu của sự dư dả. Về mặt nghề nghiệp, đó là nghề dính dáng đến tiền bạc.
Tử vi:
Tử Vi là đế tinh, có ý nghĩa tốt toàn diện, cả về mặt tài sản. Nhưng, Tử Vi không phải là sao tài đúng nghĩa. Đóng ở cung Tài, Điền vẫn lợi lộc, nhất là ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Tại bốn vị trí này, Tử Vi hội với Thiên Phủtài tinh, nhất là ở hai cung DầnThân, Tử ViThiên Phủ đồng cung cho nên hiệu lực về tài chính cũng thêm nhiều.
Nếu Tử ViNgọ thì rất rực rỡ, tài lực càng sung mãn.
Cự môn, Thiên cơ đồng cung:
Hai vị trí đồng cung của Cự, CơMãoDậu, song ở Mão đẹp hơn ở Dậu. Hai sao kết hợp thì tạo được tài lộc dồi dào, nhờ tài năng cạnh tranh, óc tính toán, đa mưu, biết người biết việc, biết phương pháp, mánh khóe, chiến lược kinh doanh, biết tường tận môi trường tài chính, rất thích hợp cho các ngành nghiên cứu về kinh tài. Cự, Cơ là sao của các nhà đại kinh doanh, tư bản lớn, làm ăn trên các môi trường lớn, các gút kinh tế hoặc của các chiến lược gia kinh tế. Đi chung với tài tinh khác như Hóa Lộc, Song Hao, ý nghĩa trên càng chắc chắn.
Riêng Cự Môn đơn thủ ở Tý Ngọ cũng giàu có tự lập từ tay trắng rồi bộc phát lẹ làng, nhất là trong lúc loạn, cạnh tranh.
Thiên cơ, Thiên lương đồng cung:
Thế đồng cung của hai sao này chỉ có ở hai cung ThìnTuất. Tại đây Cơ, Lương chỉ sự giàu có dễ dàng. Thiên Cơ chỉ mưu trí, xảo thuật kiếm tiền, Thiên Lương chỉ cơ hội tốt đẹp và may mắn, đồng thời cũng chỉ thiện tính của nhà buôn bán, kinh doanh.
Nếu Lương chỉ đơn thủ ở Tý, Ngọ thì cũng giàu có. Đồng cung với Thái DươngMão, với Thiên ĐồngDần Thân thì cũng đắc phú như vậy.
Cách giàu của các sao đi chung với Thiên Lương đều lương thiện, có tinh thần xã hội, cứu độ, tạo công ăn việc làm cho kẻ khác.
Vũ khúc, Tham lang đồng cung:
Hai sao này kết hợp điển hình cho ngành kinh doanh thương mại. Tham lang chỉ sự hám lợi, mưu tìm cái lợi tối đa. Vũ Khúc chỉ tiền bạc. Cả hai sao kết hợp là người tham tiền, ham lợi, đặc điểm của doanh thương. Vì có sự hiện diện của Tham Lang, nên sự buôn bán này không lương thiện, thành thật bằng Cơ, Lương.
Ngoài ra, vì cùng là bắc đẩu tinh hết cho nên Vũ, Tham đắc tài lúc hậu vận.
Riêng Tham Lang đơn ở Thìn, Tuất cũng rất giàu, nhất là về già. Cách giàu này rất nhanh, có tính cách hoạch phát. Hình chất khả hữu là sự kinh doanh táo bạo, tốc chiến tốc thắng, phù hợp với đặc tính của Tham Lang. Duy Tham Lang là sao tham lam, trục lợi, cho nên cách doanh thác này không mấy chính đáng. Hình thái đầu cơ tích trữ, cầm giá, kìm giá, thao túng thị trường, độc quyền mại bản có thể rất thông dụng
Thiên đồng miếu địa:
Sao này không phải là phú tinh mà là phúc stinh. Vì phúc tinh bao hàm cả lĩnh vực tiền bạc cho nên Thiên Đồng đắc địa cũng là đắc phú: đó là trường hợp Thiên ĐồngMão, chỉ người tay trắng lập nghiệp, chắc chắn nhờ may mắn, phúc đức. Duy cách giàu của Thiên Đồng phải nhọc sức, đi đây đi đó buôn bán mới có của, kiểu như các nhà môi giới, các đại diện thương mại, các người giao hàng, trình dược viên, quảng cáo lưu động, tùy viên thương mại ở nước ngoài hoặc ở xa trụ sở kinh doanh.
Đồng đi chung với Thiên LươngDần Thân cũng rất thịnh vượng và lương thiện, thông thường kinh doanh trên các nghề nghiệp hợp pháp và có khuynh hướng bố thí, hào sảng, có của, làm ra của đông thời cũng làm cho ngươi khác có của theo.
Thiên tướng:
Tướng không phải là tài tinh, nhưng nếu ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi hoặc đồng cung với Liêm TrinhTý, Ngọ, với Tử ViThìn, Tuất thì cũng làm giàu dễ dàng mà lại lâu bền, chắc chắn và chính trực.
Phá quân miếu địa:
Cũng không phải là sao tài, nhưng nếu miếu địa ở Tý, Ngọ thì cũng phong phú. Tuy nhiên, cách giàu của Phá Quân, dù có nhanh chóng dễ dàng nhờ mạo hiểm, liều lĩnh, bạo dạn, nhưng đồng thời cũng có nhiều bất trắc vì tính mạo hiểm. Dù sao, Phá Quân vẫn giữ bản chất hao tán, cho nên cái giàu rất mong manh. Cũng vì đó cho nên Phá Quân dù kết hợp với chính tinh nào cũng không chắc duy trì lâu dài sự giàu có.
Thất sát miếu địa:
Cũng không phảitài tinh, nên chỉ có của khi nào miếu địa ở Dần Thân và Tý Ngọ. Duy cái giàu của Thất Sát rất bất thường, thường là chậm, chỉ phát sau giai đoạn lập thân, phát lúc bất ngờ, cho nên có tính cách hoạch tài.
Đi chung với Tử Vi thì kiếm tiền dễ, nhanhThất Sát hỗ trợ cho Tử Vi, trong khi Phá Quân làm suy bại Tử Vi.
Nói tóm lại, cách giàu phải có tài tinh chính cốngmiếu địa. Những phúc tinh, quyền tinh, võ tinh chỉ có ý nghĩa giàu khi nào miếu địa. Những sao giàu kể trên đây có thêm trung tinh trợ lực mới mạnh thêm. Lẽ dĩ nhiên, các sao trên phải tránh các sao phá tán của cách nghèo.
Đối với trung tính, cũng có loại sao tài, cũng có loại sao may mắn, loại sao giữ của.

Bổ sung về Phụ Tinh ở cung THIÊN DI

Bài tham khảo nên các bạn cần xét kỹ cung tọa thủ cùng các cung tam phương, xung chiếu, kết hợp xem phi cung hóa tượng để có cái nhìn chuẩn xác nhất.
Văn Xương, Văn Khúc
Miếu vượng, ra ngoài phát đạt, gặp được quý nhân, nhờ tài năng hay nghệ thuật mà nổi danh, gia nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ được tiền tài, gia Tứ sát thì ít khi được như ý, hãm địa thì có kẻ tiểu nhân, gặp Không Kiếp hình kỵ chủ đơn độc nghèo khó, ở ngoài ít khi được bình yên, hao tâm tốn sức. Gặp Hóa Kỵ thì có tiếng xấu ở ngoài, chịu đả kích của người khác, hoặc có phiền phức về giấy tờ, quan trường kiện tụng, tranh chấp thị phi với người.
Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt
Được quý nhân phù trợ, gặp hung hóa cát, nhiều việc như ý. Nếu gặp thêm các sao xấu tứ sát thì chủ tiểu nhân không vừa ý, cũng chủ tranh chấp với người khác.
Lộc Tồn
Ra ngoài giàu sang như ý, có sự giúp đỡ lớn của quý nhân, được các cát tinh thủ chiếu chủ phát tài. Gặp thêm các sao xấu Hỏa Linh Không Kiếp thì không hòa thuận với người khác, cuộc sống kinh doanh vất vả.
Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa
Là điềm đại cát, ra ngoài luôn gặp may mắn, hay có thu hoạch ngoài dự kiến, được sự giúp đỡ của quý nhân, thu được tài lộc phú quý, địa vị, danh tiếng, có số thành công.
Kình Dương, Đà La
Nhập miếu hội cát tinh, ở ngoài thường hay tranh chấp, gặp được quý nhân nên được tiền tài phát đạt. Hãm địa thì bôn tẩu vô định, gia Hỏa Linh Không Kiếp thì quan hệ với người khác không hòa thuận, làm chuyện gì cũng khó thành, lại dễ gặp tai họa.
Hỏa Tinh, Linh Tinh
Độc thủ Thiên Di cung, chủ phiêu dạt bất định, gia cát tinh thủ chiếu thì trong lúc náo loạn kiếm được tiền, có thể phát tài, nhưng vẫn chủ ở ngoài hay gặp cảnh cô độc. Hãm địa gia tứ sát, Không Kiếp thì gặp thị phi, quan hệ với người không thuận hòa, mỗi khi gặp thị phi, có ý chí nhưng khó mà thoát được.
Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ
Chủ người bẩm sinh nỗ lực, nhiệt thành không bỏ cuộc nhưng vận số không tốt, ở ngoài gian khổ, nhiều thị phi, khó khăn, nhiều chuyện bỏ công sức nhưng không thu lại được gì. Nếu tam phương mệnh cung có cát tinh thì sau khi chịu gian khổ vẫn có thể thu lại được phân nửa thành quả.
Thiên Mã
Cả đời hay bôn ba, đi lại, ra ngoài, du lịch, di chuyển, tha hương nơi đất khách, nơi dị quốc, thường là người xa quê lập nghiệp. Đồng cung với cát tinh, ra ngoài được lợi. Đồng cung gia hội với Lộc Tồn, Hóa Lộc thì đến nơi khác phát tài. Tam phương mệnh cung có cát tinh, Di cung có Thiên Mã, là vận xuất ngoại, thậm chí di dân hải ngoại.

Cánh Cổng Xuyên Không Gian Đã Được Loài Người Sử Dụng Từ Thời Cổ Đại | Vũ Trụ Nguyên Thủy

Năm 2023 muốn làm giầu nhanh

Con người ai sinh ra cũng mong muốn gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống. Mong muốn một cuộc sống đủ đầy, giàu sang, phú quý

Bản thân nhận thấy có người có tiền bạc nhiều nhưng vẫn không vui bởi vì họ chưa luyện được tâm. 70-80% số tiền kiếm được không được tiêu đi

Sức khỏe làm món quà quý giá của cuộc sống

Có sức khỏe là có tất cả

Năm Quý Mão là năm con mèo (mệnh Kim)

Theo Thiên can: Sinh năm Quý Mão 2023 tương hợp với Mậu, tương hình với Đinh và Kỷ.
Theo Địa chi: Người sinh năm 2023 tam hợp với Hợi – Mão – Mùi và tứ hành xung với Tý – Ngọ – Mão – Dậu.

Theo tử vi, người sinh năm 2023 Quý Mão tuổi con mèo mang mệnh Kim hay Kim Bạch Kim, nghĩa là Vàng pha bạc.

Nhiều xe 'chạy lụi' vào cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây

Chưa được thông xe, song nhiều ôtô, xe máy vẫn chạy vào cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây dịp trước và sau Tết Nguyên đán, tiềm ẩn nguy cơ tai nạn.

Quốc lộ 1 đi qua huyện Trảng Bom, Đồng Nai kẹt cứng chiều 29/1. Ảnh: Thái Hà

Quốc lộ 1 đi qua huyện Trảng Bom, Đồng Nai kẹt cứng chiều 29/1. Ảnh: Thái Hà

Chiều 29/1, nhiều ôtô và xe máy từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung tiếp tục đổ về các tỉnh Đông Nam Bộ sau kỳ nghỉ Tết, khiến quốc lộ 1 qua khu vực giáp ranh Bình Thuận với Đồng Nai liên tục ùn tắc. Một số tài xế nôn nóng, muốn rút ngắn thời gian đã cho xe đi vào cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây chưa hoàn thành, gây nguy cơ mất an toàn giao thông.

Ôtô từ quốc lộ 1 "chạy lụi" vào cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây nhiều nhất ở địa phận huyện Xuân Lộc và Long Khánh dài chừng 10 km, có lúc gây ùn ứ một số đoạn. Khi đến đoạn giao với quốc lộ 56, các xe rẽ vào đường này để ra lại quốc lộ 1, chạy về TP HCM hoặc Biên Hòa. Một số xe tiếp tục chạy thẳng cao tốc về hướng nút giao cao tốc TP HCM - Long Thành - Dầu Giây.

Nhiều xe đi lụi trên cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây chiều 29/1. Ảnh: Thái Hà

Ôtô chạy trên cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây khi dự án chưa hoàn thành, chiều 29/1. Ảnh: Thái Hà

Cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết dài 99 km, tổng mức đầu tư 12.500 tỷ đồng, quy mô 6 làn xe, vận tốc 120 km/h. Đây được xem là tuyến huyết mạch nối cao tốc TP HCM - Long Thành - Dầu Giây và cao tốc Phan Thiết - Vĩnh Hảo. Dự án được khởi công tháng 9/2020, dự kiến hoàn thành cuối năm 2022, song không thể về đích, sau đó gia hạn đến 30/4/2023. Cuối năm 2022, dự án thông xe kỹ thuật, nhưng ôtô chưa được phép chạy do nhiều đoạn còn dang dở, ngổn ngang.

Hướng tuyến cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết. Đồ hoạ: Khánh Hoàng

Hướng tuyến cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết. Đồ hoạ: Khánh Hoàng

Ông Đặng Hùng Thái, Giám đốc điều hành dự án cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây, cho biết dự án chưa hoàn thành nên xe không được chạy vào. "Chúng tôi đã thông báo cấm tất cả phương tiện không phận sự đi vô cao tốc. Tuy nhiên do toàn tuyến dài gần 100 km, lại có nhiều đường gom, lối dẫn vào nên không thể ngăn cản hết người dân tự ý vào được", ông Thái nói.

Theo Nghị định 100/2019, xe vào đường cấm bị phạt từ 200 nghìn đồng đến 2 triệu đồng (tùy phương tiện), đồng thời có thể bị tước giấy phép lái xe 1-3 tháng.